Xã hội   Giáo dục

BAOTAYNINH.VN trên Google News

Chương trình giáo dục phổ thông mới:

Cuộc tìm tòi nào cũng gặp những rắc rối 

Cập nhật ngày: 09/01/2019 - 06:42

BTN - Việc thay đổi hoàn toàn chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận xu hướng giáo dục của quốc tế hoàn toàn không đơn giản. Cuộc tìm tòi nào cũng gặp những rắc rối. Bởi lẽ, cái mới không phải bao giờ cũng được ủng hộ, vì cái mới chưa chắc đã đúng, đã phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.

Description: DSCF0239.JPG

Lớp học được tổ chức theo mô hình VNEN tại Trường THCS Võ Văn Kiệt (TP. Tây Ninh).

Chương trình giáo dục phổ thông mới vừa được Bộ GD-ÐT công bố đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội, cả trong và ngoài ngành Giáo dục.

CẤP THCS THEO MÔ HÌNH VNEN ?

Dù đã được bàn luận, tranh cãi nhiều nhưng quyết định gộp ba môn Vật lý, Hoá học và Sinh học thành môn học mới với tên gọi Khoa học tự nhiên vẫn còn nhiều ý kiến băn khoăn, thậm chí, chính những giáo viên đang trực tiếp dạy học khẳng định không thể có chuyện một người dạy được ba môn. Trao đổi với báo giới, lãnh đạo Vụ Giáo dục trung học thuộc Bộ Giáo dục và Ðào tạo đã cung cấp một số thông tin ban đầu về môn học mới này.

Theo tinh thần đó, chương trình môn Khoa học tự nhiên của các lớp 6, 7, 8, 9 đều có 3 phần tương ứng với kiến thức thuộc lĩnh vực Vật lý, Sinh học, Hoá học với cấu trúc như sau: lớp 6 Hoá học (20%) - Sinh học (38%) - Vật lý (32%); lớp 7 Hoá học (24%) - Vật lý (28%) - Sinh học (38%); lớp 8 Hoá học (31%) - Vật lý (28%) - Sinh học (31%); lớp 9 Vật lý (30%) - Hoá học (31%) - Sinh học (29%). Cấu trúc của môn học như vậy, nhưng số tiết học của từng phân môn (lĩnh vực) trong “tổ hợp” môn Khoa học tự nhiên như thế nào chưa được công bố, nói đúng hơn là chưa có phân phối chương trình.

Trao đổi với một số giáo viên đang dạy học ở Tây Ninh, họ cho biết, thực chất của môn Khoa học tự nhiên và môn Lịch sử - Ðịa lý của chương trình giáo dục phổ thông mới được thiết kế theo mô hình của chương trình trường học mới Việt Nam (gọi tắt là VNEN). Trong chương trình giáo dục VNEN (đang được triển khai dạy tại một số trường tiểu học, trung học cơ sở) cũng có hai môn học trùng hợp hoàn toàn với chương trình giáo dục phổ thông mới.

Về phân công chuyên môn, hiện nay, tại những trường triển khai chương trình VNEN, giáo viên dạy môn nào thì vẫn dạy theo phân môn của mình, có nghĩa là vẫn ba người dạy chung một môn học (thực chất là ba môn trong một cuốn sách). Tương tự như môn Khoa học tự nhiên, môn Lịch sử - Ðịa lý cũng vậy, môn học này do hai giáo viên Lịch sử  và Ðịa lý dạy.

Có thể khẳng định, việc gộp ba hoặc hai môn học thành một môn với tên gọi mới thực ra chỉ là tích hợp theo hướng cơ học. Và không thể có chuyện một giáo viên dạy cả ba môn học. Liên quan đến khâu kiểm tra đánh giá, các giáo viên đang dạy chương trình VNEN cho biết, vào cuối mỗi học kỳ, sau khi tính điểm trung bình môn của từng phân môn do mình phụ trách, những giáo viên dạy sẽ lấy điểm chung của từng phân môn cộng lại rồi chia đều.

Môn Khoa học tự nhiên, do có ba môn học nên lấy điểm ba môn cộng lại chia ba, môn Lịch sử - Ðịa lý, vì chỉ có hai môn nên cộng lại chia hai, thành điểm trung bình môn của học kỳ. Như vậy, có thể thấy, về bản chất, những môn học mới này “bình mới”, “rượu” không cũ nhưng cũng không hoàn toàn mới. Vậy trách nhiệm chung của những người dạy thì như thế nào? Nhiều giáo viên cho biết, họ chỉ chịu trách nhiệm phần chuyên môn của mình, còn kết quả chung thì… mặc kệ.

Việc thiết kế chương trình giáo dục phổ thông mới ở cấp THCS theo tinh thần của chương trình VNEN là có thể hiểu được. Cách nay đã lâu, khi chương trình giáo dục phổ thông mới chỉ ở dạng “phôi thai”, một số ít cán bộ quản lý các cấp đã “tiết lộ” rằng, ở cấp trung học cơ sở, chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ thiết kế theo chương trình của mô hình VNEN.

Chương trình giáo dục phổ thông mới vừa được Bộ GD - ÐT công bố đã chứng minh những “thông tin ban đầu” là đúng. Liên quan đến sự “gặp nhau” giữa hai chương trình này, có một vấn đề đáng lưu tâm, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chương trình VNEN đã và đang tiếp tục bị phụ huynh, học sinh và cả chính quyền ở nhiều địa phương “quay lưng”.

Ngay tại Tây Ninh, một số trường, lớp có chương trình VNEN cũng không hoàn toàn được dư luận trong và ngoài ngành tán thành. Một số gia đình đã tìm cách chuyển con, em mình sang lớp học “chính thống”. Trên phạm vi cả nước, một số địa phương như Hà Tĩnh, Hà Giang và mới đây nhất là Khánh Hoà đã chính thức dẹp bỏ hoàn toàn chương trình VNEN. Ngoài sự tranh cãi của xã hội, của giới chuyên môn, nguồn tài trợ của các định chế tài chính quốc tế đối với chương trình VNEN cũng đã kết thúc. Chính vì thế, chương trình này hiện nay mỗi nơi thực hiện một kiểu, và việc duy trì, mở rộng mô hình trường học mới tại mỗi địa phương cũng không giống nhau.

CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG: TỰ CHỌN… CÓ ÐỊNH HƯỚNG

Ở cấp trung học phổ thông, theo giới chuyên môn, việc thiết kế cho phép học sinh tự chọn các môn học (ngoài 5 môn bắt buộc) không phải điều mới lạ đối với thế giới. Những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đều hướng đến mục tiêu đó, có nghĩa, giáo dục theo năng lực học sinh chứ không phải giáo dục toàn diện, học sinh phải học tất cả các môn dù có sở trường về môn học đó hay không.

Sau khi chương trình giáo dục phổ thông mới được công bố, cán bộ quản lý các cấp đã “cảnh báo” tình trạng lộn xộn, nhiều biến động về lực lượng giáo viên. Ðó là khi học sinh đồng loạt chọn một số môn học để chuẩn bị cho tương lai vào đại học. Như vậy, sẽ có những môn học không có hoặc có nhưng rất ít người học. Trên báo giới, ông Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp- Bộ Giáo dục và Ðào tạo cho rằng tình trạng giáo viên thất nghiệp do học sinh không lựa chọn môn học của mình là hoàn toàn có thể xảy ra.

Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết- Tổng Chủ biên Chương trình phổ thông tổng thể cũng không giấu giếm điều này. Theo ông, mong muốn của những người làm chương trình là học sinh phân hoá triệt để. Tuy nhiên, không phải trường phổ thông nào cũng đáp ứng được chủ trương dạy học theo hướng tự chọn. Do đó, chương trình đưa ra quy định các trường xây dựng tổ hợp môn học vừa đáp ứng nguyện vọng của học sinh vừa phù hợp với khả năng tổ chức của nhà trường.

Với điều kiện hiện có (cả về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, trình độ quản lý, tình hình biên chế …), việc cho học sinh được tự do lựa chọn môn học là không thể được. Trong quá khứ và cả hiện tại, khi học môn tự chọn, nhà trường đều phải tự mình tổ chức, sắp xếp và “gợi ý sát sườn” để học sinh chọn. Chương trình phân ban trung học phổ thông thất bại cũng có một phần từ việc cho học sinh tự chọn.

Vào thời điểm ấy (năm 2005-2006), khi chương trình phân ban chính thức triển khai đại trà, các nhà thiết kế đã cho học sinh tự chọn. Rốt cuộc, nhà trường phải chọn thay học trò. Cả ban A và ban C không có hoặc có nhưng rất ít người học, tất cả chỉ học theo ban Cơ bản kèm với một số môn nâng cao để vào đại học. Cách nay ít ngày, trao đổi với phóng viên, một số hiệu trưởng ở trường trung học phổ thông cũng thừa nhận, nếu để học sinh tự do lựa chọn môn học thì “loạn”. Do vậy, đường nào nhà trường cũng phải chọn cho các em.

Nói như vậy để thấy, việc thay đổi hoàn toàn chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận xu hướng giáo dục của quốc tế hoàn toàn không đơn giản. Cuộc tìm tòi nào cũng gặp những rắc rối. Bởi lẽ, cái mới không phải bao giờ cũng được ủng hộ, vì cái mới chưa chắc đã đúng, đã phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.

VIỆT ÐÔNG