“Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xây dựng Đảng, có ba mặt: tư tưởng, chính trị và tổ chức”. Những quan điểm chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, còn cho chúng ta thấy, Người đã đề cập đến cả các lĩnh vực xây dựng Đảng về đạo đức và cán bộ. Xây dựng Đảng về tư tưởng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Quan điểm của Người được thể hiện rõ trong tác phẩm Đường kách mệnh, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”- TS. Trần Thị Kim Ninh, Trưởng Khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực II mở đầu bài tham luận nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Tinh thần mừng Xuân, mừng Đảng, mừng đất nước đổi mới, phát triển đã và đang tiếp tục là niềm tự hào, là nguồn động lực to lớn để Việt Nam có thêm những mùa xuân tươi đẹp
TS. Trần Thị Kim Ninh nêu tiếp, xuất phát từ quan điểm Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”. Giá trị của chủ nghĩa Marx-Lenin là phương pháp làm việc biện chứng (phép biện chứng), Hồ Chí Minh cho rằng, học chủ nghĩa Marx-Lenin không phải để loè thiên hạ, mà để ứng dụng vào thực tiễn và khi vận dụng phải sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, tránh rập khuôn, giáo điều, vì “Chủ nghĩa Maxr-Lenin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”.
Xây dựng Đảng về chính trị, trước hết là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu khách quan của tình hình cách mạng, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sau khi đã có đường lối chính trị đúng đắn, công tác xây dựng Đảng về chính trị phải làm cho đường lối chính trị của Đảng thấm sâu vào mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho mọi người nắm vững đường lối của Đảng, tạo sự nhất trí cao trong Đảng và đồng thuận trong xã hội, trở thành những hành động cách mạng cụ thể để vượt qua mọi khó khăn, phức tạp, biến chủ trương, nghị quyết của Đảng thành hiện thực. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh giải nghĩa về cách lãnh đạo đúng là: “Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh”. Để xây dựng đường lối chính trị đúng và trúng phải xuất phát từ những yêu cầu khách quan. Điều quan trọng nhất, phải dựa vào nhân dân để vừa có đường lối chính trị đúng, vừa thực thi, kiểm soát đường lối chính trị đó cho đúng đắn.
Trong xây dựng Đảng về tổ chức, TS Trần Thị Kim Ninh chỉ dẫn, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các nguyên tắc: Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ, theo quan điểm của Lenin, đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, không tuân thủ nguyên tắc này, không còn là một đảng Marxist nữa. Hồ Chí Minh không chỉ tuân thủ luận điểm này của Lenin, Người còn bổ sung làm sáng tỏ bản chất của tập trung dân chủ và mối quan hệ biện chứng giữa chúng trong sinh hoạt Đảng. Theo Hồ Chí Minh, “tập trung” không mâu thuẫn với “dân chủ”, mà thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội, song dân chủ phải đi với kỷ cương, kỷ luật. Người giải thích rõ, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là quyền lợi, cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Nguyên tắc này chống lại chủ nghĩa quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt đời sống dân chủ ở trong Đảng, chống lại thói cục bộ địa phương, tự do vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, tùy tiện trong việc chấp hành và triển khai nghị quyết của Đảng. Tập thể lãnh đạo để phát huy trí tuệ của tập thể, đánh giá, phân tích mọi việc khách quan, toàn diện; cá nhân phụ trách mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất, là quy luật phát triển của Đảng. Để tự phê bình và phê bình trong Đảng thực hiện có hiệu quả, Hồ Chí Minh nêu những yêu cầu, mỗi đảng viên, cán bộ phải có thái độ chân thành, trung thực và kiên quyết, xuất phát từ cái tâm trong sáng của mỗi người. Thái độ phê bình phải có văn hóa, xuất phát từ cái tâm để tự phê bình và phê bình, cùng giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, làm cho nội bộ đoàn kết. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác là một nguyên tắc góp phần quan trọng làm nên sức mạnh của Đảng. Nguyên tắc này yêu cầu phải thực hiện nghiêm kỷ luật, Điều lệ Đảng, mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh chỉ ra “sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”.
Kỷ luật Đảng bắt nguồn từ bản chất của Đảng là tổ chức chính trị tự nguyện, nhưng lại hết sức chặt chẽ của những người có trình độ giác ngộ cao. Vì vậy, Người xác định: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng là một nguyên tắc bảo đảm sức mạnh của Đảng và làm hạt nhân để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Nguyên tắc này đòi hỏi các cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Phải thực hiện đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin, phải sống với nhau có tình, có nghĩa và thi hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt khác của Đảng như tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình...
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt chú trọng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Người chỉ rõ, “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng càng phải coi trọng hơn quan hệ giữa Đảng - Dân. Bởi lẽ, xây dựng chế độ mới khó khăn hơn, phức tạp hơn việc đấu tranh giành độc lập, giành chính quyền. Đó là cuộc chiến đấu khổng lồ, chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi.
“Trong giai đoạn hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, của tổ chức Đảng là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng”- TS. Trần Thị Kim Ninh và chỉ ra những việc cần thực hiện nghiêm túc. Trước hết, để đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, yêu cầu cán bộ phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, nắm vững kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại. Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, kinh tế, xã hội, đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Khi phân tích, đánh giá tình hình, đòi hỏi người cán bộ phải có tư duy sắc bén, khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá thông tin chính xác, khách quan.
Trong dự báo, định hướng phát triển không chỉ dừng lại ở việc hiểu rõ hiện tại mà còn phải dự báo xu hướng, định hướng phát triển trong tương lai, người cán bộ có trí tuệ sẽ nhạy bén với những thay đổi, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, đưa ra quyết định đúng đắn, phục vụ tốt công tác lãnh đạo, quản lý. Cùng với những biến đổi không ngừng của tình hình mới, cán bộ cần nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, tình hình trong nước và quốc tế.
Phát huy dân chủ trong Đảng là một trong những giải pháp then chốt để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trước hết, phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa tập trung và dân chủ, phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể, đồng thời tôn trọng ý kiến của cá nhân. Thứ hai, tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhằm tạo môi trường dân chủ, cởi mở, thẳng thắn trong sinh hoạt chi bộ. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, quan liêu. Tiếp theo, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí cán bộ. Tạo điều kiện cho đảng viên tham gia vào quá trình đánh giá, giám sát cán bộ. Thứ tư, phát huy vai trò giám sát của quần chúng, bằng cách mở rộng các kênh tiếp nhận ý kiến phản ánh, kiến nghị của quần chúng đối với tổ chức Đảng và đảng viên. Xử lý nghiêm minh các vi phạm, tạo niềm tin cho nhân dân.
Trong các văn kiện từ Đại hội lần thứ X trở về trước, Đảng chỉ đề cập đến những biểu hiện yếu kém, tiêu cực của tổ chức đảng, những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta lần đầu tiên được đề cập tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Văn kiện Đại hội Đảng XI đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Nhận thức này tiếp tục được khẳng định trong văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII đã chỉ ra những biểu hiện để nhận diện các hành vi vi phạm, trong đó có 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, ‘tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Tăng cường công tác xây dựng Đảng phải gắn liền với việc rèn luyện đạo đức cách mạng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, suy thoái về đạo đức, lối sống là mối quan hệ biện chứng, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Rèn luyện đạo đức cách mạng là nền tảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là biện pháp quan trọng để bảo vệ đạo đức cách mạng, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hiện nay, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới.
Công tác cán bộ là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, trong quá trình chuẩn bị công tác nhân sự của Đảng, quan điểm của người đứng đầu Đảng đã nêu rõ quan điểm: yêu cầu tiên quyết của công tác nhân sự của Đảng là đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, phải có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ, có uy tín cao. Vì đội ngũ tinh hoa này không chỉ quyết định sự thành bại của một nhiệm kỳ đại hội Đảng, phẩm chất, tài năng của họ gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước.
Trong bài thơ “Với Đảng, mùa xuân”, sáng tác năm 1977, Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, viết: “Không chỉ hôm qua/ Hôm nay, mãi mãi/ Đất nước này vạn đại tươi xanh/ Như rừng đước, cháy rồi, lại mọc/ Tràm lại ra hoa cho ong mật đu cành”. Để “đất nước này vạn đại tươi xanh”, xây dựng Đảng đã, đang và phải luôn trở thành nhiệm vụ số một, vì vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh dân tộc.
Bài, ảnh: VIỆT ĐÔNG
Thiết kế: Ngọc Trâm