Không biết sao, khi đến lòng hồ Dầu Tiếng, bao giờ tôi cũng tìm về hướng núi:- Núi Bà Đen. Thì đây, trên ĐT 781, núi đã dâng đầy ngay bên tay trái. Vào tới thị trấn, dừng chân ở công viên bên cầu Xa Cách, lại thấy núi dâng lên vời vợi như ngay ở phía sau khu nhà Huyện uỷ Dương Minh Châu. Ra tới bến Đá, lòng hồ, lên đập ngoảnh lại phía sau, lại đã thấy núi dâng ngay trước ngã ba đầu phố huyện. Đến khu đầu mối gần đập chính nhìn về, thấy núi xanh ngời ở phía trời xa, chếch về bên phải khối hình bông sen lớn rực hồng bằng bê tông cốt thép…

Với tôi, núi luôn ở bên hồ. Và, hồ cũng luôn kề bên núi.

Núi đã có trên đất này từ rất lâu rồi! Các nhà địa chất bảo:- đá núi Bà thuộc hệ phun trào trung tính, ở kỷ Jura Thượng từ hơn trăm triệu năm về trước. Còn hồ? Thì mới gần đây thôi. Đến năm 2025 này mới đúng là sinh nhật thứ 40. Nhớ đến chuyện này, cũng nên cảm ơn tầm nhìn xa trông rộng của lãnh đạo đất nước ta những năm thập niên 70. Sau khi miền Nam giải phóng, các đoàn khảo sát của Viện Thiết kế thuỷ lợi đến mọi miền đất nước để bắt đầu công cuộc khôi phục kinh tế sau hơn 30 năm kháng chiến. Đến ngày 18.5.1979, Luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình thuỷ lợi Dầu tiếng được Chính phủ phê duyệt. Ngày 29.4.1981, công trình được khởi công; ngày 8.12.1983 hoàn thành việc hợp long- chặn dòng sông Sài Gòn. Vào ngày 10.1.1985, hồ Dầu Tiếng đã căn bản được hoàn thành và bắt đầu mở nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân cho hàng trăm ngàn héc-ta, đã từng chịu nhiều năm khô khát. Tôi nhớ mãi hình ảnh xúc động trong một phim truyền hình ghi nhận sự kiện này. Sau phút giây lịch sử cửa cống kênh Đông được mở ra, dòng nước đầu tiên chảy ồ ạt tới, có một cụ già men xuống bờ kênh, lấy chiếc nón mê rách trên đầu chao xuống, hớt lên một vụm nước. Lúc ấy cụ mới tin đây là sự thật. Nước mắt ứa ra trên gò má nhăn nheo.

Hồ Dầu Tiếng là hồ thuỷ lợi nhân tạo, diện tích lòng hồ ước tính khoảng 27.000 ha, dung tích 1,58 tỷ m dung tích 1,58 tỷ mét khối ét khối nước, trải rộng nước, trải rộng trên địa phận huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương), huyện Dương Minh Châu, (tỉnh Bình Dương), huyện Dương Minh Châu, Tân Châu Tân Châu (tỉnh Tây Ninh) và (tỉnh Tây Ninh) và huyện Hớn Quản (tỉnh Bình Phước).   Ảnh: Dương Đức Kiên

Hồ Dầu Tiếng là hồ thuỷ lợi nhân tạo, diện tích lòng hồ ước tính khoảng 27.000 ha, dung tích 1,58 tỷ m dung tích 1,58 tỷ mét khối ét khối nước, trải rộng nước, trải rộng trên địa phận huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương), huyện Dương Minh Châu, (tỉnh Bình Dương), huyện Dương Minh Châu, Tân Châu Tân Châu (tỉnh Tây Ninh) và (tỉnh Tây Ninh) và huyện Hớn Quản (tỉnh Bình Phước). Ảnh: Dương Đức Kiên

Tiện đây cũng ghi lại vài thông số chính của công trình:- Mực nước dâng lên bình thường ở cao trình +24,4m. Tương ứng là mặt hồ lúc đó rộng 27.000 ha và dung tích nước lúc này là 1,58 tỷ mét khối nước. Đây là hồ lớn thứ 3 trên cả nước, chỉ sau có hồ thuỷ điện Hoà Bình và hồ Thác Bà. Kể thêm về đập phụ- như một con đê lừng lững chạy dài ôm lấy bờ Nam và Tây của lòng hồ, chiều dài 27km. Ở Việt Nam hiện chưa có một con đập nào lớn và dài như vậy. Bạn nghĩ gì về các con số này: 27.000 ha và 27km bề dài đập phụ? Có thể đây chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng, với tâm linh của bà con có đạo Cao Đài thì cộng các con số lại sẽ bằng số 9- con số cực kỳ thiêng liêng trong “Tam giáo đồng nguyên”.

Có thể nói, hồ Dầu Tiếng là một kỳ tích của người Tây Ninh trong công cuộc dựng xây đất nước. Cái hồ vĩ đại này, hôm nay còn là một thắng cảnh vào bậc nhất ở Tây Ninh. Đến đây ngắm hồ, dù từ đâu thì lòng người cũng sẽ ngân lên những câu hát tuyệt vời của nhạc sĩ Phó Đức Phương: “Non xanh mà nước biếc ối a/ Khoan nhặt mái chèo hự là/ Khoan nhặt mái chèo ối à/ Nhìn bóng chiều in ngấn nước/ Ta nhìn đất trời một dòng nghiêng soi/ Nghe tiếng rừng nghe tiếng suối/ Xôn xang mái chèo nhịp đời sinh sôi”. Đứng trước hồ có cảm giác như là trước biển. Sóng xôn xao vồ vập bên bờ. Là tiếng rừng thật đấy! Bởi có 219 ha rừng dầu lịch sử đã tái sinh thành rừng nguyên sinh ngay cạnh hồ, nay thuộc xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu. Lại có cả tiếng suối róc rách xa xa như vọng về từ các con suối:- Bà Chiêm, Sanh Đôi, Suối Nhím, Tha La nay đã hoà vào với lòng hồ thăm thẳm, xa xanh.

Mùa thả diều bên bờ Dầu Tiếng.  Ảnh: Dương Đức Kiên

Mùa thả diều bên bờ Dầu Tiếng. Ảnh: Dương Đức Kiên

Chưa hết đâu! Từ đây, còn có các dòng kênh toả đi muôn hướng. Kênh Đông sải bước dọc huyện Dương Minh Châu, rồi qua Gò Dầu, Trảng Bàng chạy tới đất Củ Chi. Kênh Tây rẽ ngang qua huyện Dương Minh Châu, qua TP. Tây Ninh và phía Nam huyện Tân Biên sang tới huyện Châu Thành. Và mới đây, kênh này còn đưa nước tới các xã hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông và huyện Bến Cầu bằng hẳn một cây cầu vượt trên sông Vàm Cỏ Đông. Đến năm 1996-1999 lại có thêm một kênh Tân Hưng đưa nước lòng hồ về huyện Tân Biên. Ba dòng kênh, mỗi dòng đều có lưu lượng của một dòng sông. Cùng với hàng ngàn cây số kênh mương các cấp toả đến mọi vùng trên đất Tây Ninh. Như những động mạch chủ, tĩnh mạch và mao mạch ngày đêm nuôi nấng con người và muôn loài sinh vật.

Nhiều người đã biết lòng hồ Dầu Tiếng nằm phần lớn trên huyện Dương Minh Châu. Mà, phần lớn diện tích hồ, đã từng là căn cứ địa Dương Minh Châu danh tiếng suốt hai thời kháng chiến. Nhưng lớp trẻ ngày nay, mấy ai đã biết lòng hồ từng có những làng xưa. Đấy là các thôn Phước Hội và Lộc Ninh. Sách Từ điển địa danh hành chính Nam bộ (2008) cho biết cả hai thôn trên đều: “thuộc tổng Hàm Ninh, h. Tân Ninh, P. Tây Ninh, t. Gia Định từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)…”. Phần lớn đất đai Phước Hội vẫn còn, ngày nay là xã Suối Đá và thị trấn Dương Minh Châu. Nhưng toàn bộ xã Lộc Ninh xưa, nay đã yên vị dưới lòng hồ. Sách Truyền thống cách mạng xã Lộc Ninh (2017) có đoạn: “Đầu thế kỷ XX, Lộc Ninh vẫn còn là vùng rừng hoang hoá, rừng già, đất rộng người thưa… Tuy đời sống còn khó khăn nhưng người dân làng Lộc Ninh lúc đó đã xây dựng được một ngôi đình thần toạ lạc gần nhà ông Cả Sang, cách cầu Lộc Ninh khoảng vài trăm mét…”. Cầu ở đây là trên đường liên tỉnh lộ 13… Vậy mà “đến năm 1984, toàn bộ xã được di dời về địa điểm mới khi công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng tích nước…”. Sách Hồ Dầu Tiếng (Nxb Lao Động, 1991) ghi lại sự kiện này như sau: “Cảm động biết bao trong câu chuyện di dân lòng hồ. Bom đạn và chất độc hoá học của giặc chà đi xát lại hàng chục năm không hề đánh bật được người dân nào ra khỏi nền nhà của họ. Nhiều người thà nằm xuống vĩnh viễn trên mảnh đất quê hương, một tấc không đi một ly không rời. Nhưng chỉ một lời kêu gọi của Dầu Tiếng, vì lợi ích của hàng triệu người, hơn 1.800 hộ với ngót 8 ngàn nhân khẩu đã vui vẻ rời khỏi lòng hồ trong thời gian ngắn nhất…”. Vâng, đấy chính là phẩm chất của người Dương Minh Châu dũng cảm, kiên cường.

Vào năm 1990, tác giả sách Hồ Dầu Tiếng đã thốt lên, ngỡ ngàng khi viết: “Nước Dầu Tiếng như có phép lạ”. Thì câu này ngày càng thấy đúng. Chung quanh vùng hồ, hay ở tất cả những nơi các dòng kênh đi qua, lúa, mì, mía, cao su đã vun đầy, sum suê hoa trái. Đến đâu cũng có cảnh vịt bơi trắng đồng, xôn xao cá quẫy. Sen súng nở đầy hoa trên mọi lối bờ kênh. Đặc biệt là các xã bên hồ. Như Suối Đá, Phước Ninh, Phước Minh, Lộc Ninh hay Bến Củi… của Dương Minh Châu vừa mới có một con đường mới, nối đường Khedol - Suối Đá ra thẳng bờ hồ. Hai bên chỉ một màu xanh ngút. Là mãng cầu, mì, cao su. Và có cả những vườn hoa kiểng rung rinh để người ta bán tết. Nhưng, điều kỳ diệu nhất lại xảy ra ở rừng dầu giống quốc gia- nơi có Khu di tích lịch sử Căn cứ địa Dương Minh Châu. 219 ha rừng mới trồng từ năm 1980, nhưng nhờ nước thẩm thấu từ lòng hồ mà nay đã trở lại là rừng nguyên sinh thứ thiệt. Cây dầu đã thành cổ thụ, cao 20-30m. Và bên dưới tán dầu là hai, ba tầng rừng cây hoang dại, từ lùm bụi đến dây leo vấn vít cành cao.

Phép lạ nhờ hồ không chỉ có ở các vùng có kênh mương, mà còn là toàn bộ tỉnh Tây Ninh- được mệnh danh là “nắng cháy da người”. Nắng thì vẫn nắng thôi. Để làm đỏ muối tôm, muối ớt. Hay tích tụ ngọt ngào trong từng múi sầu riêng, mãng cầu và làm trắng xốp bánh phơi sương. Nhưng, nhờ hồ Dầu Tiếng có diện tích gấp 2 lần TP. Tây Ninh mà thời tiết đã dịu dàng hơn. Thậm chí có nhiều ngày giống như mùa thu Hà Nội.

Bay dù lượn - sản phẩm du lịch mới được tổ chức được tổ chức ở bờ hồ Dầu Tiếng.  Ảnh: Huỳnh Đông

Bay dù lượn - sản phẩm du lịch mới được tổ chức được tổ chức ở bờ hồ Dầu Tiếng. Ảnh: Huỳnh Đông

Hơn 200 năm trước, ông quan Hiệp Tổng trấn thành Gia Định Trịnh Hoài Đức đã viết cuốn địa chí đầu tiên của vùng đất. Là sách Gia Định thành thông chí. Khi viết về vùng đất nay là Tây Ninh, ông chỉ mới mô tả có núi Bà Đen, sông Tân Bình (Sài Gòn) và sông Quang Hoá (Vàm Cỏ Đông). Mô tả sông Lăng Khê, nay là rạch Tây Ninh, ông kể sông này: “có nguồn từ các đầm phá ở núi Bà Đen thấm thía chảy ra…”. Có lẽ ông đã không bao giờ tiên đoán được trên vùng đất này, sau ông gần 200 năm thì con người nơi đây đã xây dựng được một lòng hồ vĩ đại, có thể nói theo người xưa là “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử của miền đất từng là đạo Quang Phong, Quang Hoá.

Còn tôi lại thấm thía câu ở chương sách Sơn Xuyên Chí: “Núi là xương của đất, nước là máu của đất ấp ủ lưu thông mà thành đất đai một phương. Những anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ đều từ đó mà ra…”.

Chiêm nghiệm lại lịch sử Tây Ninh, bạn có thấy đúng là như vậy không?

Điện sạch, nước xanh, sức mạnh giống nòi.  Ảnh: Huỳnh Thanh Liêm

Điện sạch, nước xanh, sức mạnh giống nòi. Ảnh: Huỳnh Thanh Liêm

Bài, ảnh: Nguyễn Quốc Việt
Thiết kế: Ngọc Trâm