Đọc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta rất dễ nhận ra là kể từ khi bắt tay vào viết cho đến lúc hoàn thành, Người đã chỉnh sửa nhiều lần. Với tư duy ấy, nếu còn sống lâu hơn nữa chắc hẳn Người sẽ tiếp tục chỉnh sửa. Điều ấy nói lên một điều rằng thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng nên con người cũng phải luôn luôn đổi mới để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tiễn. Về vấn đề này, trong bài viết với tiêu đề: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới” - Tổng Bí thư Tô Lâm đã dẫn lời của người thầy của giai cấp vô sản V.I. Lenin: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua” và khẳng định: “Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng…”.

Những người cộng sản Việt Nam đứng trên lập trường duy vật biện chứng vì vậy trong mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn luôn sáng tạo và đổi mới để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình. Tinh thần đổi mới, sáng tạo này đã luôn được các nhà sáng lập Chủ nghĩa Marx-Lenin nhấn mạnh và nhắc nhở.

Sinh thời, Karl Marx và Friedrich Engels nhiều lần nhắc lại rằng học thuyết của các ông không phải là bất biến, nó là học thuyết mở nên những người đi sau không thể xem nó như một mô hình để bê nguyên xi vào thực tiễn. Trong bức thư gửi cho một nữ văn sĩ người Mỹ là Florence Kelley-Wischnewski năm 1887, F. Engels đã nói rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lặp lại một cách máy móc”. Cũng vậy, ngay từ năm 1910, V.I.Lenin đã nhắc lại lời khẳng định F. Engels: “Học thuyết của chúng tôi- Engels nói về mình và người bạn nổi tiếng của mình- không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành động” và cho rằng quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Marx trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá huỷ cơ sở lý luận cơ bản của nó - tức là phép biện chứng”. V.I.Lenin cũng nhấn mạnh “Chính vì chủ nghĩa Marx không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nó không thể không phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã hội”.

Cổ tích Việt Nam có câu chuyện rất hay về chuyện một chàng ngốc đi chợ. Anh ta mua bưởi gánh về nhà nhưng vì nhà cách con rạch nhỏ nên cứ gánh bưởi lên thì nó lại nổi và trôi ra không thể mang về nhà được. Vợ anh ta đứng bên kia mới nói rằng bưởi nó tròn nên nó nổi, đẩy từng quả qua bên này rồi qua vớt lên. Anh chàng nọ đã làm theo lời vợ và thành công. Lần sau, anh ta cũng đi chợ nhưng lần này anh không mua bưởi mà mua trứng. Vẫn nhớ lời vợ dặn cái gì tròn thì nó nổi nên anh ta làm y như lần trước song kết quả thì trứng bể hết. Tri thức và kinh nghiệm dân gian của người Việt vốn rất sâu sắc và đầy trí tuệ, dù chỉ là câu chuyện vui vui song cũng mang trong đó biết bao những suy tư đầy thú vị.

Tranh vẽ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc huấn luyện  chính trị, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt  Nam tại nhà số 13, đường Văn Minh (Quảng  Châu, Trung Quốc), từ năm 1925-1927

Tranh vẽ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam tại nhà số 13, đường Văn Minh (Quảng Châu, Trung Quốc), từ năm 1925-1927

Xin hãy quay trở về với người thầy vĩ đại Hồ Chí Minh. Nếu như trong Học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân theo V.I.Lenin thì đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Thế nhưng, Nguyễn Ái Quốc, từ thực tiễn Việt Nam lại khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Marx - Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trong tác phẩm với tên gọi “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Và “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Có phải chính tư duy độc lập, đổi mới và sáng tạo này của Nguyễn Ái Quốc mà Đại hội VI Quốc tế Cộng sản năm 1928 đã chỉ trích Nguyễn Ái Quốc (?). Tháng 7.1920, khi đọc được “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã vui mừng đến phát khóc lên khi khẳng định đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Thế nhưng, chính Nguyễn Ái Quốc cũng khẳng định rằng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nghị quyết viết thì thật rõ ràng là “kiên định” và “vận dụng sáng tạo”, tức là có 2 vế: một là kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, song phải “vận dụng, phát triển sáng tạo” vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Thế nhưng trong thực tế rất nhiều người hiện nay vẫn chỉ nhấn mạnh “kiên định” mà ít đề cập đến “vận dụng, phát triển sáng tạo”. Vậy nên trong các bản kiểm điểm hằng năm của đảng viên hay trong các diễn đàn nào đó chúng ta vẫn thường nghe nhiều người nhấn mạnh “tuyệt đối”, thực ra trời đất còn không tròn vẹn thì làm gì có cái gì là tuyệt đối. Thỉnh thoảng vào một số cơ sở giáo dục rất dễ thấy câu khẩu hiệu “tất cả vì học sinh thân yêu”. Thực ra chỉ cần đặt ra mục tiêu “vì học sinh thân yêu” là phù hợp, tức sẽ cố gắng làm những gì có thể trong khả năng vì học sinh, còn viết “tất cả” thì hình như lại “chả có gì”. Xem thế đủ thấy rằng từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ chuyện của một ngành nghề đến chuyện đại sự quốc gia cần phải luôn luôn đổi mới để phù hợp với sự vận động không ngừng của thực tiễn.

Nếu hơn một trăm năm trước, Nguyễn Ái Quốc cái gì cũng “tuyệt đối”, “tuyệt đối” rất có thể đã không có một chính đảng đầy bản lĩnh và sáng tạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực ra khi bàn về tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh không thể không nhắc tới thân phụ của người: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Là một nhà Nho, bản thân cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng năm Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), thế nhưng cụ lại không hướng con trai của mình trau dồi thi thư, học hành đỗ đạt để làm quan như tư tưởng chung của những người thấm nhuần đạo Khổng. Ngược lại, cụ ủng hộ Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp. Khi đem con trai của mình gửi cho người bạn là nhà giáo Phạm Ngọc Thọ (thân sinh của bác sĩ, Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch) ở Quy Nhơn, Bình Định và chỉ học mỗi môn tiếng Pháp. Như vậy, cụ Nguyễn Sinh Sắc có thể đã hiểu chí con trai mình và ngầm ủng hộ. Việc học tiếng Pháp của Nguyễn Tất Thành rất quan trọng vì đây là điều kiện thuận lợi để người đi sang phương Tây, mà trực tiếp là nước Pháp, đất nước đang đô hộ Việt Nam khi ấy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn  dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII, tháng 10.1961

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII, tháng 10.1961

Khi ấy, Nguyễn Tất Thành rất khâm phục các bậc cha chú của mình như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng Người lại không đồng tình với con đường cứu nước của các sĩ phu đáng kính ấy. Nước Pháp là quê hương của câu khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Vì vậy, Nguyễn Tất Thành muốn tới tận nơi để xem ẩn đằng sau câu khẩu hiệu mỹ miều ấy là gì. Hiểu điều này ta sẽ rất dễ giải thích vì sao khi lần đầu tiên đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành đã xin vào học Trường thuộc địa của Pháp. Louis Pasteur chẳng từng nói rằng: “Học vấn không có quê hương nhưng người học phải có Tổ quốc”. Đến nước Mỹ, trước tượng Nữ thần Tự do, Nguyễn Tất Thành đã không ngước nhìn lên như những người khác, Người nhìn xuống chân tượng Nữ thần Tự do và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do toả rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”. Sau này ở Pháp, Hồ Chí Minh tham gia sinh hoạt trong “Hội những người Việt Nam yêu nước” ở Pháp gồm nhiều nhân vật trí thức lớn như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền… nhưng tư tưởng về đường lối cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc vẫn rất riêng. Sau này, cả Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đều không thành công và đều đặt trọn niềm tin vào người cháu Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1945, khi Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ có hơn 5 ngàn đảng viên nhưng đã lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại. Đó thật sự là cuộc cách mạng kết tinh sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo bằng đường lối đúng đắn từ tư duy đổi mới, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Nhìn lại các cuộc cách mạng trên thế giới không khó để nhận ra là có rất nhiều đổ vỡ. Chẳng hạn khi Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra, cả gia đình Sa Hoàng đã bị giết. Thế nhưng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cựu hoàng Bảo Đại đã được mời làm Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ông còn được giới thiệu ứng cử Quốc hội khoá I tại đơn vị bầu cử tỉnh Thanh Hoá (quê hương nhà Nguyễn).

Từ ngày 25 - 30.12.1920, Nguyễn Ái Quốc  (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian  hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại  hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố  Tours với tư cách đại biểu Đông Dương

Từ ngày 25 - 30.12.1920, Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương

Là một nhà lãnh đạo với tư duy đổi mới và thực hành, Hồ Chí Minh quan tâm tới những vấn đề cụ thể, thiết thực. Đọc các bài viết, bài nói của Người, chúng ta thấy rõ một tư duy nổi bật là hầu như tất cả chẳng hề theo một khuôn mẫu sẵn có nào. Những gì phức tạp thì Người làm cho nó đơn giản đi, những gì đã đơn giản rồi thì Người làm cho nó càng đơn giản hơn nữa. Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã lo lắng đến sự tha hoá của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, huyện, tỉnh và làng cuối năm 1945, Hồ Chí Minh đã liệt kê ra rất nhiều những biểu hiện tha hoá của đội ngũ cán bộ, đảng viên mà soi chiếu với hôm nay chúng ta không khỏi không giật mình về nhãn quan chính trị, mẫn cảm và tầm dự báo chiến lược sâu xa của người. Hồ Chí Minh cho rằng tự do, hạnh phúc là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Vì vậy, phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Và, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Từ tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến tư tưởng kinh tế mới của Lenin. Hồ Chí Minh cũng là người từ rất sớm thấy vai trò của giới công thương trong phát triển kinh tế. Chỉ một ngày sau Tuyên ngôn độc lập, trong lịch tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể, Người xếp thương giới ở hàng thứ năm, trước cả công chức, nông hội. Hồ Chí Minh là người có tư tưởng mới về văn hoá từ rất sớm. Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở vào giai đoạn gay go quyết liệt, Người đã dành công sức viết tác phẩm Đời sống mới với những tư tưởng đặc biệt mới. Theo Hồ Chí Minh, “Đời sống mới” là: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm… Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới”. Cũng trong năm ấy, để giáo dục cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa những biểu hiện tha hoá trong đội ngũ, Người đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10.1947) với rất nhiều nội dung chứa đựng tư tưởng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền một cách toàn diện, sâu sắc và vẫn mang tính thời sự nóng hổi trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Bác Hồ và các em thiếu nhi

Bác Hồ và các em thiếu nhi

Trong cuốn sách có tiêu đề “Lịch sử văn minh Trung Hoa” (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê), khi viết về Khổng Tử, tác giả Will Durant đã viết: “Không ai lại đòi một triết gia phải suy tư cho hai chục thế kỷ sau”. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chính thức đề ra khát vọng và tầm nhìn đi tới của dân tộc, đó là: KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC. Trên hành trang đi tới kỷ nguyên phồn vinh và hạnh phúc của dân tộc, hãy quay trở về học, vận dụng thật kỹ tư duy đổi mới, sáng tạo của người thầy vĩ đại Hồ Chí Minh.

Tiến sĩ Vũ Trung Kiên

Phó trưởng Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị khu vực II (TP. Hồ Chí Minh)

Thiết kế: Ngọc Trâm