Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Một bản photocopy của tờ phân chia di sản thừa kế. Một tờ giấy chuyển nhượng QSDĐ viết tay. Trên cơ sở 2 chứng cứ này, bản án sơ thẩm của TAND huyện Tân Châu tuyên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ này vô hiệu. Tuy nhiên, hơn 2 năm sau, HĐXX của TAND huyện này khi xét xử lại vụ án đã có nhận định khác: công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ.
|
Phần đất đang tranh chấp.
Tố cáo hành vi chiếm đất?
Ngày 13.9.2014, ông Lê Thanh Sang (ngụ quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh) gửi đơn kiến nghị đến UBND xã Tân Hội, UBND huyện Tân Châu với nội dung sự việc như sau:
Mẹ của ông Sang là bà Nguyễn Thị Lệ đã chết để lại một phần đất tại ấp 3, xã Tân Hội, huyện Tân Châu. Mọi người trong gia đình thống nhất giao phần đất trên cho ông Sang quản lý sử dụng; ông liên hệ với chính quyền để làm thủ tục thừa kế theo quy định. Tuy nhiên, trước đó, cháu của ông Sang là Lê Thanh Bình và Lê Thanh Bé đã sang nhượng phần đất nêu trên cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Vỹ và bà Huỳnh Thị Ánh Nhỏ. Việc sang nhượng đất này không đúng quy định nên dẫn đến tranh chấp kéo dài, toà án đã đình chỉ giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, vợ chồng ông Vỹ lại đổ gạch đá xây dựng trên phần đất ông Sang thừa kế. Ông Sang đề nghị chính quyền địa phương ngăn cản và xử lý việc xây dựng không đúng quy định, xâm phạm đến quyền lợi gia đình ông. Không được chính quyền giải quyết thoả đáng, ngày 4 và 30.10.2014, ông Sang tiếp tục gửi đơn đến UBND huyện, UBND tỉnh tố cáo vợ chồng ông Vỹ có hành vi chiếm đất của người khác. Vì vậy, UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo UBND huyện xem xét giải quyết và báo cáo UBND tỉnh. Ngày 27.11.2014, UBND huyện Tân Châu có văn bản báo cáo UBND tỉnh với nội dung: ông Bình, ông Bé (cháu nội cụ Lệ) đã có hợp đồng sang nhượng phần đất cho vợ chồng ông Vỹ, nhưng chưa làm thủ tục sang nhượng và vợ chồng ông Vỹ đã quản lý sử dụng từ năm 2002 không có ai ngăn cản. Việc vợ chồng ông Vỹ sử dụng phần đất trên là ngay tình nên không có cơ sở cho rằng vợ chồng ông Vỹ chiếm đất. Căn cứ Luật Đất đai, UBND huyện Tân Châu hướng dẫn ông Sang khởi kiện ra toà để được giải quyết theo quy định.
Hành trình khiếu kiện
Bản án số 78/2013/DSST (bản án số 78) ngày 12.12.2013 của TAND huyện Tân Châu thể hiện: Ngày 18.1.2013, vợ chồng ông Vỹ khởi kiện yêu cầu ông Bình tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất đã ký kết (vợ chồng ông Vỹ cũng khởi kiện ông Bé trong một vụ kiện nội dung tương tự). Ngày 20.6.2013, vợ chồng ông Vỹ thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông Bình trả lại 19 triệu đồng và bồi thường thiệt hại giá trị đất, tài sản trên đất. Theo đó, phần đất tranh chấp 273m2 trị giá 684.138.000đ, giá trị tường rào là 42.144.850đ, tổng giá trị là trên 726 triệu đồng.
Bản án xác định, hình thức hợp đồng chỉ lập giấy tay, chưa tuân thủ theo quy định pháp luật. Ngày 20.3.2013, toà án đã ban hành quyết định buộc thực hiện hợp đồng nhưng các bên không thực hiện. Về nội dung, tại thời điểm chuyển nhượng, vợ chồng ông Vỹ biết ông Bình chưa đủ điều kiện chuyển nhượng, vì người đứng tên trên giấy CNQSDĐ là cụ Lệ nhưng vẫn thực hiện việc chuyển nhượng; trong khi ông Bình thừa nhận gia đình tương phân đất cho ông chỉ để ở không được chuyển nhượng, nên vi phạm Điều 131 BLDS 1995 và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10.8.2004. Hợp đồng chuyển nhượng đất này vô hiệu theo Điều 136, 139 BLDS 1995 nên toà chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Vỹ. Ông Vỹ có nghĩa vụ trả cho ông Bình 273m2 nằm trong diện tích 8.239m2 do cụ Lệ đứng tên QSDĐ. Toà xác định cả hai có lỗi nên mỗi bên phải chịu 1/2 giá trị thiệt hại, nên ông Bình có trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng ông Vỹ 332.569.000đ.
Sau phiên xử, ngày 10.1.2014, VKSND tỉnh có quyết định kháng nghị huỷ Bản án số 78 với nhận định sau: Việc vợ chồng ông Vỹ thay đổi yêu cầu khởi kiện đã chuyển sang quan hệ pháp luật “Đòi tài sản và bồi thường thiệt hại về tài sản” nhưng toà sơ thẩm vẫn giữ nguyên quan hệ pháp luật ban đầu là “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ” là không chính xác. Toà sơ thẩm xác định vụ án thuộc trường hợp áp dụng thời hiệu khởi kiện nhưng chưa làm rõ các vấn đề về thời hiệu, trong khi hợp đồng ký kết năm 2002 chưa làm thủ tục sang tên theo quy định, và đến nay giá trị tài sản có sự chênh lệch lớn (từ 19 triệu đồng nay lên đến gần 700 triệu đồng). VKS cũng cho rằng, lẽ ra toà phải tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và chấp nhận một phần, chấp nhận toàn bộ hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, trên cơ sở đó quyết định chính xác trách nhiệm chịu án phí dân sự của từng đương sự. Việc toà sơ thẩm tuyên vợ chồng ông Vỹ trả đất cho ông Bình là chưa chính xác, vì đất trên do cụ Lệ đứng tên QSDĐ, trong khi cụ Lệ chết, liên quan đến di sản thừa kế, mà thực tế có tờ tương phân thể hiện “ông Bình được thừa kế 273m2” và một tờ thoả thuận thể hiện “ông Bình không được thừa kế diện tích đất trên”.
Bản án số 94/2014/DSPT ngày 15.4.2014 của TAND tỉnh nhận định: Về hình thức, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Vỹ là yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, yêu cầu này thể hiện tại biên bản hoà giải không thành ngày 8.5.2013. Do đó, cần xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ mà các bên đều có yêu cầu toà tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu nên cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là đúng quy định pháp luật.
Về nội dung, cấp phúc thẩm cho rằng việc ông Bình chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Vỹ chỉ căn cứ vào giấy photocopy “tờ phân chia đất”, trong khi đó hợp đồng tặng cho đất giữa cụ Lệ và ông Bình chưa phát sinh hiệu lực (khoản 4 Điều 146 NĐ 181/2004/NĐ-CP) nên ông Bình không đủ điều kiện chuyển nhượng, hợp đồng vô hiệu ngay từ khi bắt đầu giao kết. Vì vậy, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Cho nên cấp sơ thẩm buộc ông Bình phải trả cho vợ chồng ông Vỹ 1/2 giá trị thiệt hại do chênh lệch giá đất là không đúng. Việc cấp sơ thẩm tuyên giao đất cho ông Bình quản lý trong khi ông Bình chưa được cấp giấy CNQSDĐ là vượt thẩm quyền của HĐXX. Vì vậy, cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh, huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Đình chỉ vụ án và bị đơn khởi kiện ngược lại
Sau khi cấp phúc thẩm huỷ án giao hồ sơ về cấp sơ thẩm xét xử lại, TAND huyện “chưa kịp xét xử lại” thì vợ chồng ông Nguyễn Văn Vỹ rút đơn khởi kiện nên ngày 3.9.2014, TAND huyện Tân Châu ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Đến ngày 21.1.2015, ông Bình làm đơn khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông với vợ chồng ông Vỹ. Vợ chồng ông Vỹ phản tố yêu cầu ông Bình tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, yêu cầu toà án công nhận QSDĐ diện tích thực tế đo đạc là 281,2m2 cho vợ chồng ông. Ngày 26.1.2016, TAND huyện Tân Châu đưa vụ án ra xét xử. Tại toà, ông Sang trình bày rằng, toàn bộ diện tích đất mẹ ông chết để lại chưa phân chia thừa kế theo quy định. Hiện tại giấy CNQSDĐ do cụ Lệ đứng tên QSDĐ và do ông quản lý. Vì thế, ông Sang không đồng ý ông Bình chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Vỹ.
Tại phiên xử sơ thẩm này, thẩm phán Lưu Văn Sơn nhận định: Cụ Lệ khi còn sống có cùng ông Sang bàn bạc lập tờ phân chia đất cho các cháu, có chứng kiến của trưởng ấp Hội Thạnh, xã Tân Hội, xóm giềng, cùng các anh em của ông Bình ký tên vào tờ phân chia đất, dù bản phân chia này chỉ còn bản photocopy (có vẽ sơ đồ) nhưng phù hợp với chứng cứ thu thập được, thể hiện ý chí cụ Lệ. Sau đó, ông Bình, ông Bé và ông Hiền (một người cháu khác của cụ Lệ) đổi đất cho nhau. Ông Bình chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Vỹ. Vợ chồng ông Vỹ đổ đất nâng nền nhưng không ai có ý kiến gì. Cụ Lệ chết nay đã 13 năm, không ai tranh chấp về chia di sản thừa kế. Do đó, phần đất ông Bình chuyển nhượng cho vợ chồng ông Vỹ là thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông.
Về phản tố của vợ chồng ông Vỹ, toà cho rằng, tuy hợp đồng giữa ông Bình và vợ chồng ông Vỹ viết bằng giấy tay, các bên không hoàn thành thủ tục chuyển nhượng theo quy định là vi phạm về hình thức. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng đã thực hiện xong, ông Bình đã nhận tiền, vợ chồng ông Vỹ nhận đất, đồng thời đổ đất làm mặt bằng nhưng không ai có ý kiến gì. Năm 2013, vợ chồng ông Vỹ xây tường rào, xây nhà cấp 4 nhưng ông Bình không phản đối. Vợ chồng ông Vỹ không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về đất đai. Vì vậy, căn cứ vào Nghị Quyết 02/2004/NQ-HĐTP, toà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện huỷ bỏ hợp đồng. Toà chấp nhận yêu cầu phản tố và công nhận QSDĐ diện tích 281,2m2, công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 11.3.2012 giữa vợ chồng ông Vỹ với ông Bình. Vợ chồng ông Vỹ được quyền sử dụng diện tích đất nêu trên tại ấp Hội Thạnh, xã Tân Hội, huyện Tân Châu.
Sau phiên toà sơ thẩm nêu trên, theo trình bày của đương sự, vào ngày 15.2.2016 (mùng 8 tết âm lịch), ông Bình, ông Bé, ông Sang đến TAND huyện Tân Châu xin nhận bản án và nộp đơn kháng cáo. Ngày 16.2, các đương sự đến nộp đơn kháng cáo, thư ký toà yêu cầu các đương sự về sửa đơn kháng cáo. Ngày 17.2, các đương sự nộp và thư ký nhận đơn kháng cáo (có biên nhận, thông báo nộp án phí và biên lai thu tiền tạm ứng án phí). Tuy nhiên, đến ngày 24.2, khi tống đạt bản án cho đương sự, toà lại tống đạt thêm thông báo về yêu cầu trình bày lý do kháng cáo quá hạn (?!) Được biết, trong quá trình toà án đang thụ lý giải quyết, vợ chồng ông Vỹ vẫn tiến hành xây dựng nhà làm ki-ốt để kinh doanh, dù ông Sang đã phản ánh với chính quyền, toà án nhưng các cơ quan này vẫn không có động thái gì để yêu cầu giữ nguyên hiện trạng, chờ toà giải quyết.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, tại tờ phân chia đất của cụ Lệ (bản photocopy), phần ký tên của cụ Lệ, của ông Sang, chữ ký giống nhau. Theo ông Sang trình bày trước toà, ông không biết tờ phân chia đất này và cũng không hiểu sao có chữ ký của ông tại vị trí ký tên của cụ Lệ và của ông Sang. Do vậy, việc xem xét chứng cứ là một bản photocopy trong trường hợp này có đúng quy định?
Chỉ với một nội dung vụ việc, nhưng các HĐXX lại có nhiều nhận định và phán quyết khác nhau. Trong vụ việc này, các đương sự theo đuổi vụ kiện mong tìm được một bản án hợp tình, hợp lý sao mà lắm gian nan.
ĐỨC TIẾN