Nói đến trang phục đặc sắc của dân tộc Việt
Nam thời hiện đại, nhất là của phụ nữ, của "phái đẹp", chúng ta và cả bạn bè
quốc tế đều nhắc đến chiếc áo dài truyền thống. Thế nhưng trong suốt lịch sử mấy
trăm năm về trước, trang phục tiêu biểu đã làm nên dáng đẹp của các "quý bà, quý
cô" nước Việt lại chính là những tấm áo mớ ba, mớ bảy với chiếc nón thúng quai
thao.
Chiếc nón quai thao đi kèm với bộ áo mớ ba, mớ bảy, mà màu hoa đào, màu hoa
hiên, màu xanh thiên lý hay màu vàng chanh của những lớp áo trong được phủ ra
ngoài bằng chiếc áo the đen mỏng dính, cài bên cạnh sườn bằng chiếc cúc đồng nhỏ
xíu - từ nách lên cổ thì lật chéo sang bên, hở he hé những màu sắc bên trong.
Cái lối ăn mặc nửa kín nửa hở này khiến cho các tao nhân mặc khách nam nhi thật
sự xao xuyến bồi hồi, nhưng nó vẫn tỏ ra nền nã, kín đáo, mang đậm sắc thái của
người phụ nữ Việt Nam. Phía dưới, các quý bà, quý cô thường mặc váy lưỡi trai
bảy bức bằng lĩnh hay sồi đen buông chấm gót, làm nền cho những dải thắt lưng
cánh sen hay mỡ gà thắt nút so le rủ xuống, đong đưa mỗi khi cơn gió thoảng qua.
Các cô còn vấn khăn nhiễu tím hay đen, vắt cao lọn tóc đuôi gà dài óng ả, bên
mình là bộ xà tích kèm ống vôi quả đào bằng bạc và con dao gấp xinh xinh, vừa để
trang sức lại vừa để têm trầu, bổ cau... Và bộ trang phục này càng thêm hài hòa
khi các cô xỏ chân vào đôi dép cong da trâu, hay đôi guốc gỗ cong sơn then quai
bằng da hoặc sợi mây. Và lại càng duyên dáng xinh đẹp hơn khi trên tay hay đội
đầu là chiếc nón quai thao.
Nón quai thao (cũng còn gọi là nón ba tầm) là
một loại nón đắt tiền, đẹp và sang trọng, thường các bà, các cô chỉ đội hoặc
mang theo trong những dịp lễ, tết, hội hè, hoặc những lúc có công việc nhàn nhã,
vui vẻ nhưng cần phải nghiêm chỉnh, lịch sự. Nón thúng quai thao từ lâu đã đi
vào ca dao, dân ca, đi vào tiềm thức của người Việt với những câu ca đằm thắm,
trữ tình:
"Ai làm chiếc nón quai thao
Để anh thương nhớ ra vào khôn nguôi"
Hay:
"Ai làm chiếc nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh..."
Cho đến nay, thật khó có thể biết được chiếc
nón thúng quai thao đầu tiên ra đời từ khi nào? Và ai là người sáng tạo ra nó?
Chỉ biết một điều chắc chắn là: Từ khi chiếc nón quai thao ra đời, nó đã dần dần
đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của người Việt và lập tức trở thành một trong những
vật trang sức vừa có ý nghĩa thực dụng cho người phụ nữ Việt Nam, vừa góp phần
tôn vinh vẻ đẹp của quý bà, quý cô trong cuộc sống...
Chiếc nón quai thao thường có kích thước khá
lớn, đường kính mặt nón ước chừng 70-80 cm, che rợp cả khuôn mặt người đội, tạo
nên một không gian rộng, thoáng và mát. Mặt phẳng trên nón lợp lá gồi hoặc lá
cọ, sát phía dưới là thành nón cao độ 10-12 cm. Giữa nón gắn một vành tròn như
nắp tráp vừa đầu đội cao khoảng 8 cm, gọi là cái "khua". "Khua" nón làm công phu
lắm: Nó là những sợi tre nhỏ chuốt bóng khâu lại với nhau bằng chỉ tơ nhiều màu
sắc. Những sợi chỉ đan chéo nhau thành hình hoa lá, chim muông thật đẹp mắt.
Quai thao là bộ phận không thể thiếu của
chiếc nón ba tầm, nó chẳng những làm cho nón cân bằng, vững chãi, mà còn làm cho
người phụ nữ thêm duyên dáng, thướt tha... Quai thao làm bằng tơ, nhưng là loại
tơ đặc biệt, vừa rẻ, vừa bền lại vừa có giá trị cao. Thông thường các cô gái trẻ
thì thích dùng quai thao màu trắng ngà gốc tơ tằm, còn quai thao màu tím, màu
đen thì được dùng cho phụ nữ đã lập gia đình. Quai thao gồm từ 2 đến 3 sợi bện
lại với nhau (gọi là quai kép), thả võng đến thắt lưng. Khi đội đầu, người phụ
nữ lấy tay giữ quai ở trước ngực, nón không bị đung đưa lại tiện điều chỉnh khi
đội thẳng hay lúc cần nghiêng nghiêng che nắng... Hai đầu quai thao có chừng
mươi mười hai túm tua nho nhỏ, dài chừng 20-25 cm rủ xuống trông mềm mại, vui
mắt.
Từ xưa đến nay, làng Triều Khúc, tổng Thanh
Oai, tỉnh Hà Đông (nay là Triều Khúc, huyện Thanh Oai, Hà Nội) là một làng nghề
thủ công chuyên làm quai thao để đính vào nón thúng. Nón thúng thì phải đặt mua
tại làng Chuông (nay thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội). Người làng
Triều Khúc dệt thao rất nhanh và khéo. Nhiều khi họ không cần nhìn vào bàn dệt,
miệng vẫn chuyện trò, cười nói, ấy vậy mà dây thao vẫn đều và mượt, cấm có lỗi
nhỏ nào. Sợi thao sau khi dệt xong phải qua công đoạn tết nút, nhiều đoạn được
thắt lại thành những họa tiết vừa đẹp mắt, lại làm cho dây thao thêm chắc. Mỗi
bên đầu quai thao có hai quả cù, to bằng ngón tay cái, được đan tết công phu, rủ
xuống thành tua dài tới 25 cm. Tua được cắt bằng đầu, không để cho sợi dài, sợi
ngắn lởm chởm. Người ta có thể để quả thao song song với nhau hoặc so le là tùy
ý. Dây thao được tết thường dài tới 2, 3 thước. Muốn dây có màu thật trắng,
người ta đem chuội tơ với nước tro rơm, sau đó với mỡ lợn, cơm xôi rồi ngâm một
đêm thì thao sẽ có màu trắng phau. Muốn nhuộm vàng thì cho thêm phẩm để tơ dệt
thêm trắng, vàng óng. Còn nếu muốn nhuộm đen thì phải dùng thuốc hoàn nguyên để
không bị phai, thôi. Khâu cuối cùng là đính quai thao vào nón để khi mặc với áo
tứ thân, áo mớ ba, mớ bảy, váy lĩnh đen bóng, lưng đeo xà tích, đầu đội nón quai
thao có tua rủ xuống bờ vai sẽ khiến cho các bà, các cô, các mợ càng thêm vẻ mặn
mà, đài các...
Đã hơn nửa thế kỷ nay, nón thúng quai thao và
những tấm áo mớ ba, mớ bảy đã lùi xa vào dĩ vãng. Làng Triều Khúc chuyên làm
quai thao và làng Chuông chuyên làm nón thúng nổi tiếng khi xưa nay đã đổi nghề.
Sự thật là đã từ lâu, nón thúng quai thao không còn được ưa chuộng nữa, vì thế
chúng ta và cả bạn bè, du khách quốc tế chỉ còn biết đến trang phục truyền thống
của phụ nữ Việt Nam thời trước, biết đến nón thúng quai thao, đến áo mớ ba, mớ
bảy trên các sàn diễn sân khấu, nhất là trên sàn diễn dân ca quan họ Bắc Ninh...
Song những trang phục đơn sơ và giản dị rất Việt Nam ấy sẽ không mất đi, chúng
đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam, mãi mãi vẫn là "Hồn dân tộc Việt".
K.D (st)