Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Khi nói về Đề cương văn hoá, các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao nguyên tắc “dân tộc hoá”, “đại chúng hoá”, “khoa học hoá”. Đã có không ít các công trình nghiên cứu làm rõ các nguyên tắc này.
Biểu diễn múa Khmer phục vụ du khách tham quan Khu du lịch núi Bà Đen. Ảnh: Dương Đức Kiên
“Đất nước bên bờ sóng”
Trong mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tính dân tộc trong văn hoá đã được thảo luận khá rộng rãi. Có hai vấn đề mang tính cốt lõi gồm tính dân tộc và bản sắc. Thực tế phát triển của mọi dân tộc mà Việt Nam không là ngoại lệ, đó là sự phát triển mang tính nội tại, đóng vai trò quan trọng hàng đầu, là căn cốt của nền văn hoá.
Khi nhấn mạnh đến tính dân tộc chính là thừa nhận tính đa dạng văn hoá. Đề cương văn hoá đưa ra khái niệm dân tộc hoá chính là thừa nhận sự dung hợp, giao thoa văn hoá. Cụ thể hơn giao thoa văn hoá đặt trên nền tảng sức mạnh nội sinh của văn hoá dân tộc.
Văn hoá Việt Nam thống nhất trên cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, đó là điều không thể phủ nhận. Tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam còn là sản phẩm, là kết quả của quá trình dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam, trải qua hàng thiên niên kỷ cho đến hôm nay, trở thành sức mạnh nội sinh của văn hoá cộng đồng dân tộc quốc gia.
Nước ta là một nước văn hiến lâu đời. Chính trên nền tảng đó, trải qua hàng ngàn năm lịch sử dân tộc ta đã vượt qua phong ba bão táp, vững vàng bên bờ Thái Bình Dương, mà không một kẻ thù nào có thể khuất phục nổi.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta gắn liền với việc sáng tạo, bảo lưu văn hoá dân tộc, bồi đắp các giá trị văn hoá tộc người và văn hoá quốc gia, được hun đúc và tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác, trở thành tài sản vô giá trong quá khứ cũng như trong hiện tại và tương lai.
Khi xem xét nội lực của văn hoá tộc người cần phải xem xét hoàn cảnh lịch sử, địa lý của dân tộc đó trong tiến trình lịch sử để thấy rằng các giá trị đó được hình thành qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, có tính bền vững cao nhưng nó cũng luôn vận động trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc và chịu sự tác động của các yếu tố chính trị, xã hội.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã phải trải qua rất nhiều biến động trong quá trình dựng nước và giữ nước. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành một đặc điểm xuyên suốt trong lịch sử dân tộc.
Có thể nêu lên một số đặc điểm chính của cộng đồng dân tộc Việt Nam như sau. Nền văn minh dân tộc được hình thành và định hình sớm đã tạo nên bản sắc văn hoá, tính cách dân tộc và được nuôi dưỡng phát triển qua hàng nghìn năm.
Từ hàng nghìn năm trước trên lãnh thổ Việt Nam đã hình thành những trung tâm văn minh và nhà nước đầu tiên: văn hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Chăm Pa (ban đầu gọi là Lâm Ấp) ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam.
Lịch sử Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm từ trên 2.000 năm trước. Đó là lịch sử vinh quang và oanh liệt nhưng cũng có không ít đau thương mất mát. -Lịch sử Việt Nam là lịch sử xây dựng giang sơn của một dân tộc bên bờ Biển Đông từ vùng núi và thung lũng vươn ra chinh phục vùng đồng bằng châu thổ và biển cả với nền nông nghiệp thâm canh bền vững.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của cộng đồng 54 dân tộc cùng kề vai sát cánh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Mặc dù quá trình sinh tồn của các tộc người không đồng nhất với nhau, nhưng do cùng chung vận mệnh lịch sử nên sự đoàn kết gắn bó trong cộng đồng dân tộc đã trở thành một truyền thống quý báu, làm nên tính đa dạng và thống nhất của văn hoá Việt Nam.
Người Việt Nam đã tổng kết: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Cái giàn đó chính là Tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là quá trình tiếp biến văn hoá và giao thoa văn hoá trên nền tảng văn hoá dân tộc, từng bước làm giàu có thêm nền văn hoá dân tộc, đóng góp vào kho tàng văn hoá quốc gia và nhân loại. Quá trình giao thoa này diễn ra từ thời cổ trung đại và đặc biệt diễn ra trong thời cận hiện đại, nhất là trong quá trình hội nhập hiện nay.
Bệ đỡ trong chiến lược phát triển
Liên quan đến tính dân tộc hay dân tộc hoá là bản sắc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: Văn hoá dân tộc với ý nghĩa sâu xa nhất và tốt đẹp nhất chính là cốt lõi của bản lĩnh và bản sắc dân tộc từ xa xưa cho đến nay, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc, làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển và lớn mạnh.
Trong bản Đề cương tuy chưa đề cập đến bản sắc một cách rõ ràng nhưng đã chỉ ra các yếu tố làm nên bản sắc như vấn đề tiếng nói và chữ viết, vấn đề văn phạm, chống nạn mù chữ, thực hành tân dân chủ về nội dung... trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Lịch sử đã chỉ ra rằng, toàn cầu hoá không chỉ là thách thức đối với các quốc gia, dân tộc và tộc người trên phương diện chính trị, kinh tế mà cả trên lĩnh vực văn hoá, thể hiện qua ngôn ngữ, âm nhạc, truyền hình, ẩm thực và trang phục...
Dưới tác động của văn hoá phương Tây, nhiều khái niệm mới đã xuất hiện như chủ nghĩa đa nguyên văn hoá, chủ nghĩa liên văn hoá, xuyên văn hoá, cho thấy những vấn đề đặt ra với việc bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong bối cảnh đó, nếu một quốc gia không đủ sức đề kháng trước ảnh hưởng của văn hoá ngoại sinh, thì các hệ giá trị và đặc biệt là bản sắc văn hoá dân tộc có nguy cơ bị xói mòn, phân rã hoặc thậm chí là đồng hoá. Văn hoá là bộ gen xã hội của mọi dân tộc, do vậy, một dân tộc mất văn hoá cũng đồng nghĩa với việc dân tộc đó bị diệt vong với tư cách dân tộc hay quốc gia.
Kế thừa, phát triển trên cơ sở các giá trị của “Đề cương về văn hoá Việt Nam”, Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943 là văn kiện đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng lý luận văn hoá ở Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ giới trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16.7.1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại hội nghị Trung ương 5 khoá VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Có thể coi đây là cương lĩnh thứ hai của Đảng ta về văn hoá. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã bổ sung phạm vi, nội hàm của văn hoá, bao gồm tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản văn hoá; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lưu văn hoá với thế giới; thể chế và thiết chế văn hoá.
Tính dân tộc hay dân tộc hoá từ Đề cương được cụ thể hoá thành bản sắc văn hoá dân tộc. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, ngày 9.6.2014, hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Nghị quyết đã nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt quan trọng của chủ thể sáng tạo, xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc là nhân tố con người, trước yêu cầu hội nhập quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Văn hoá (...) có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: văn hoá là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định...
Nghĩa hẹp: văn hoá là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức... Văn hoá cũng bao gồm cả văn hoá vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, di sản văn hoá, những sản phẩm văn hoá: đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...).
Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hoá là nói đến những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”.
Những luận điểm tư tưởng, quan điểm mang tính định hướng có tính chiến lược của Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943 của Đảng ta đã đặt nền tảng cho việc xây dựng và từng bước hoàn thiện đường lối văn hoá của Đảng, đưa văn hoá trở thành bệ đỡ trong chiến lược phát triển đất nước và khát vọng Việt Nam hùng cường. Những quan điểm cốt lõi của bản Đề cương tiếp tục được thực hiện trong thực tiễn và khơi nguồn về lý luận trong việc xây dựng văn hoá và con người Việt Nam hiện nay và tương lai.
Việt Đông