BAOTAYNINH.VN trên Google News

Văn học Đông Nam bộ:

Di sản phong phú và những bước phát triển mới 

Cập nhật ngày: 09/10/2023 - 07:54

BTN - Nối tiếp truyền thống các bậc tiền bối hàng trăm năm trước, văn học Đông Nam bộ hiện đại xuất hiện nhiều tên tuổi đáng trân trọng từ giữa thế kỷ XX.

Văn nghệ sĩ Tây Ninh chụp ảnh lưu niệm cùng nhà thơ Phan Hoàng trong buổi giao lưu chuyên đề do Hội Văn học - Nghệ thuật huyện Gò Dầu tổ chức tháng 12.2022. Ảnh: Hoàng Yến

So với lịch sử hàng ngàn năm dựng và giữ nước của dân tộc, Nam bộ là vùng đất mới. Từ tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất vào kinh lược xứ Đồng Nai và đi thuyền ngược sông đến cù lao Phố mở mang, tạo lập, ổn định dần cả vùng Đông Nam bộ trấn biên đất phương Nam.

Không có bề dày văn hoá như Bắc bộ và Trung bộ nhưng từ thuở cha ông khẩn hoang mở cõi, Nam bộ nói chung và Đông Nam bộ nói riêng cũng đã sản sinh và gắn bó nhiều nhà văn, nhà thơ tiêu biểu như “Gia Định xử sĩ Sùng Đức” Võ Trường Toản, “Gia Định tam gia” Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức rồi những Nguyễn Thông, Phan Thanh Giản, Nguyễn Hữu Huân, Bùi Hữu Nghĩa… Mỗi người có hoạn lộ, sự nghiệp khác nhau nhưng đều có những tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, thương dân.

Nối tiếp truyền thống các bậc tiền bối hàng trăm năm trước, văn học Đông Nam bộ hiện đại xuất hiện nhiều tên tuổi đáng trân trọng từ giữa thế kỷ XX. Họ đã kế thừa, phát huy một cách tốt đẹp di sản và tinh thần sáng tạo nhân văn của cha ông.

Đầu tiên là Đồng Nai - Bình Dương gắn liền với chiến khu Đ, hiện lên hình ảnh hào hùng và lãng mạn của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, tác giả hai câu thơ bất hủ “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” và nhiều bài thơ vang vọng rừng xanh. Chín năm chống Pháp, thời Huỳnh Văn Nghệ là Chi đội trưởng Chi đội 10 thì Bùi Cát Vũ là Giám đốc Binh công xưởng cùng phối hợp chỉ huy trận giao thông chiến La Ngà thắng lợi vang dội, về sau Bùi Cát Vũ trở thành vị tướng và là nhà văn có nhiều tác phẩm mang tính thời sự từ chiến trường.

Cũng từ đất Đồng Nai đã xuất hiện hai tên tuổi lẫy lừng là Lý Văn Sâm và Bình Nguyên Lộc. Tác giả Kòn Trô - Lý Văn Sâm là cây bút tiêu biểu về truyện đường rừng và mang tinh thần yêu nước, phản kháng mạnh mẽ, đặc biệt là với những tác phẩm Sương gió biên thuỳ, Chuông rung trên tháp cổ. Trong khi đó, Bình Nguyên Lộc là nhà văn, nhà nghiên cứu, tác giả tiểu thuyết Đò dọc cùng hơn 50 tác phẩm các thể loại đã làm nên gương mặt văn chương yêu nước sáng giá hàng đầu miền Nam. Bên cạnh hai bậc đàn anh thì Đồng Nai tiếp sau nổi lên nhà văn Hoàng Văn Bổn, một cây bút văn xuôi giàu nội lực, với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản, tiêu biểu như Trên mảnh đất này, Bên kia sông, Lũ chúng tôi, Tướng Lâm Kỳ Đạt…

Ngược lên Tây Ninh, vùng đất biên cương cũng sản sinh một số tác giả ghi dấu ấn trên văn đàn. Đầu tiên phải kể đến nhà văn Vân An đầy nhiệt huyết, tác giả tiểu thuyết tình báo 2747 và nhiều tập truyện giá trị viết về chiến tranh, thể hiện hình ảnh đẹp của người nông dân yêu nước, kiên cường, quật khởi bám đất bám làng và cả tình cảm hoà quyện thắm thiết của người Việt với người Khmer anh em. Tiếp đến là Thẩm Thệ Hà, một thầy giáo yêu nước, một cây bút đa năng, tác giả nhiều tập thơ, truyện, chính luận, văn học dịch và biên soạn sách giáo khoa, với một sức làm việc đáng nể, để lại tài sản văn học phong phú.

... Xuôi về miền biển Bà Rịa - Vũng Tàu là một số gương mặt văn chương, nổi bật là Tô Nguyệt Đình và Kiều Thanh Quế. Nhà văn Tô Nguyệt Đình (tên thật Nguyễn Bảo Hoá) cùng với nhà thơ Phạm Huy Thông, soạn giả Trần Hữu Trang, nhà thơ Viễn Phương, nhà văn Lê Vĩnh Hoà, nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Kiên Giang... trực tiếp tham gia đấu tranh trên các lĩnh vực báo chí truyền thông, văn hoá văn nghệ tại Sài Gòn khi đất nước bị chia cắt sau năm 1954. Ông cũng là tác giả nhiều tiểu thuyết, tập truyện ngắn, biên khảo thể hiện tình yêu nước nồng nàn. Trong khi đó, Kiều Thanh Quế vừa viết văn xuôi vừa phê bình văn học, ông hy sinh khi mới 34 tuổi, để lại một gia tài văn học đáng nể, đặc biệt các tác phẩm Phê bình văn học (1942), Cuộc tiến hoá văn học Việt Nam (1943), Ðàn bà và nhà văn (1943), Học thuyết Frued (khảo luận, 1943)… mang tính cập nhật, khái quát có hệ thống về một giai đoạn văn học, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mang tính lý luận phê bình cho tương lai.

Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, cùng với sự thay đổi của toàn xã hội, văn học miền Đông Nam bộ từng bước đổi mới và phát triển. Bên cạnh lớp nhà văn trưởng thành từ kháng chiến như Lý Văn Sâm, Tô Nguyệt Đình, Vân An, Hoàng Văn Bổn, Cảnh Trà, Phan Phụng Văn, Thanh Việt Thanh… tiếp tục sáng tác thì đội ngũ các cây bút mới cũng dần hình thành và phát triển theo từng giai đoạn khác nhau trong gần nửa thế kỷ qua.

Văn nghệ sĩ trong chuyến thực tế sáng tác tại Trang trại trồng trọt công nghệ cao xã Hoà Hiệp, huyện Tân Biên. Ảnh: Thạch Thảo

Có thể kể đến sự xuất hiện của các tác giả: Nguyễn Đức Thiện, Trần Hoàng Vy, La Ngạc Thuỵ, Nguyễn Quốc Việt, Phan Kỷ Sửu, Bửu Khánh Hồ, Vũ Thiện Khái, Nhất Phượng, Nguyễn Quốc Nam, Nguyễn Tấn Hùng, Đặng Mỹ Duyên, Trương Gia Hoà, Nguyễn Văn Tài, Mộng Trung Nhân, Nguyên Hạ, Khaly Chàm, Ngọc Tình… ở Tây Ninh; Trần Đức Tiến, Lê Huy Mậu, Hoàng Quý, Tùng Bách… ở Bà Rịa - Vũng Tàu; Cát Du ở Bình Dương; Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ, Phạm Thanh Quang, Đàm Chu Văn, Bùi Quang Huy, Nguyễn Thu Trân, Trần Thúc Hà, Hoài Tố Hạnh, Lê Thanh Xuân, Lê Đăng Kháng, Bùi Quang Tú, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Một, Đào Sỹ Quang, Hoàng Đình Nguyễn... ở Đồng Nai. Hầu hết các tác giả kể trên có từ 10 đến vài mươi đầu sách đã xuất bản, được trao nhiều giải thưởng văn học từ địa phương tới trung ương.

Bên cạnh đó, có những cây bút xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XX và khẳng định mình ở đầu thế kỷ XXI như Trần Thu Hằng, Nguyễn Đức Phước, Hạnh Vân (Đồng Nai); Trần Nhã My, Đào Phạm Thuỳ Trang (Tây Ninh); Lê Minh Vũ, Lưu Thành Tựu (Bình Dương); Biên Linh, Nguyễn Duy Hiến (Bình Phước); Vũ Thanh Hoa, Châu Hoài Thanh, Bùi Đế Yên (Bà Rịa - Vũng Tàu)… Tác phẩm của các tác giả miền Đông Nam bộ thể hiện đều khắp các lĩnh vực: thơ, văn xuôi, lý luận phê bình và dịch thuật. Tuy nhiên, như mặt bằng chung cả nước, các nhà thơ bao giờ cũng đông đảo hơn cả, kế đến là văn xuôi. Có nhà thơ đồng thời viết văn và ngược lại, nhưng sở trường bao giờ cũng giúp tác giả thành công hơn.

Ngoài tài năng và nỗ lực sáng tạo cá nhân thì sự hỗ trợ của địa phương thông qua vai trò của các Hội Văn học - Nghệ thuật là bệ phóng quan trọng. Tất cả các tỉnh miền Đông Nam bộ đã sớm thành lập Hội Văn học - Nghệ thuật, tiên phong là Đồng Nai với vai trò và dấu ấn cá nhân của nhà văn “đầu đàn” Lý Văn Sâm đặt nền móng phát triển vững chắc. Gần đây, Tây Ninh cũng là tỉnh có hội nghề nghiệp phát triển mạnh, sự cố gắng của nghệ sĩ Đặng Thị Phượng với những hoạt động giao lưu thực tiễn phong phú xuống từng chi hội cấp huyện, tạo tiền đề cho các tác giả và tác phẩm hình thành trong tương lai ở vùng biên giới.

Hiện nay, các Hội Văn học - Nghệ thuật Đông Nam bộ đều có tạp chí văn nghệ làm diễn đàn để công bố tác phẩm thường xuyên của hội viên. Đồng thời, các hội còn có giải thưởng văn học thường niên hoặc 5 năm do UBND tỉnh tổ chức, bên cạnh là các cuộc thi thơ, truyện, ký trong phạm vi của một tỉnh hay liên kết cả vùng, trở thành nguồn động viên, khuyến khích đầy ý nghĩa cho người sáng tác và phát hiện, tìm nguồn bồi dưỡng các cây bút mới. Nhờ đó, các cây bút dần xác lập giá trị, khẳng định mình qua các tác phẩm được xuất bản, xứng đáng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhân loại đã bước vào thời đại 4.0. Đất nước ta cũng đang đẩy mạnh chuyển đổi số. Ngoài trải nghiệm sống thực tế, văn nghệ sĩ cần nắm bắt công nghệ thông tin và biến nó thành phương tiện hữu hiệu để trau dồi kiến thức, dung nạp năng lượng sáng tạo, quảng bá tác phẩm. Chỉ có như vậy, văn học nghệ thuật Đông Nam bộ mới thực sự đổi mới, hội nhập, hướng tới những tầm cao giá trị mới.

Nhà thơ Phan Hoàng

(Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam)