Trải qua thời gian, người
Tày vùng Nghĩa Đô đã tạo lập cuộc sống ở vùng đất này và sáng tạo ra những
giá trị văn hoá tinh thần, tạo nên yếu tố phát triển bền vững. Một trong
những yếu tố văn hoá độc đáo của người Tày vùng Nghĩa Đô đó chính là tiếng
nói.
Ông Ma Thanh Sợi - nghệ
nhân văn hoá dân gian, người dày công sưu tầm và nghiên cứu văn hoá dân gian
Nghĩa Đô cho biết: Để có được nét riêng trong tiếng nói, thì người Tày vùng
Nghĩa Đô đã không ngừng dày công sáng tạo chữ viết và tiếng nói trên cơ sở
tiếng Tày bản thể. Trong tiếng nói của dân tộc đều do phần từ vựng (từ ngữ),
âm vựng (ngữ âm) tạo thành. Dân tộc Tày sống rải rác ở các tỉnh miền núi
phía Bắc, tiếng nói của người Tày về từ vựng hầu hết giống và gần giống
nhau. Còn ngữ âm (âm vựng) khi phát ra lại khác nhau, gắn liền với địa danh.
Nét độc đáo tiếng nói của
người Tày Nghĩa Đô còn được biểu hiện ở chỗ, ngoài 24 chữ cái của tiếng
Việt, còn có 4 âm tiết nữa, khi phát ra hoàn toàn khác, không nằm trong ngữ
Việt, đó là các từ đầu tiếng gắn sát với chữ p, ph, b, m. Để thể hiện, đã có
nhiều người từ năm 1950 đưa chữ y dài kèm ngay sau chữ ấy, rồi mới gắn các
từ ghép thành tiếng định hình. Cách viết là: py, phy, by, my, gần nhóm chữ
cái p, ph, b, m của tiếng Việt. Ví dụ: các từ pỵa (dao), pya (cá), phya
(mắt), phýăc (rau), byóoc (hoa)... Một số âm tiết ghép theo sau chữ â, e, i
phải gắn chữ g và chữ ư như âư, ing, eng (trong tiếng Việt không có). Ví dụ:
Pây dâư (đi đâu), tụa đâư (ai đấy), anh ting, một đong (kiến đỏ), xu xeng
(quai xanh).
Tất cả số lượng từ có các chữ ấy dùng khá nhiều trong giao
tiếp, nhất là từ ghép âư. Trong 6 thanh (vần) của tiếng Việt, tiếng Tày
Nghĩa Đô còn có một thanh "lửng" giữa thanh bằng (0) và thanh sắc. Khi nói
quá hơn thanh bằng, lại chưa đến thanh sắc. Dấu chỉ thanh lửng chưa có, chưa
ai đặt dấu gì cho phù hợp, tạm đặt ký hiệu dấu huyền, dấu sắc chắn ngang,
lại đến dấu huyền nối liền vào, đó là dấu gần giống với dấu ngã, nhưng khác
hẳn với ngã, khi đưa vào máy vi tính còn có dấu xử lý cho thanh lửng này.
Dùng dấu này, cũng đúng với từ, âm này khi nói ra, vì lửng giữa thanh bằng
và thanh sắc. Những từ dùng đến thanh lửng này có khi chiếm tới hơn chục
phần trăm lượng từ nói hàng ngày, nhất là ở dạng dân ca, tục ngữ, hát yếu,
hát then. Do vậy, những câu thơ Tày trong quyển sưu tầm thường xuyên có dấu
như vậy, không phải tác giả sai dấu.
Có một số âm lắc, khi nói
ra khác với các phụ âm ghép sau của tiếng Việt. Phụ âm này chỉ có tiếng Tày
của vùng này mới có (tiếng Tày nơi khác như tiếng Việt). Lượng từ dùng phụ
âm này để chỉ tên người, hiện vật, sự việc, địa danh... cũng chiếm tới 5%
lượng từ dùng hàng ngày. Sau các phụ âm ghép có lẽ phải dùng đến chữ s để
thể hiện. Khi đọc có các âm ghép đằng sau cùng chữ s đọc gọn, sắc nét, dứt
khoát. Chính một số chữ, âm vần, thanh lửng, phụ âm lắc như đã nêu ở trên
nên tiếng Tày Nghĩa Đô khác tiếng Tày các nơi, khó có nơi nào nói nhại tiếng
Tày Nghĩa Đô được. Đặc biệt là thanh lửng ở các câu thơ Tày, dân ca, nếu
không dùng ký hiệu riêng để thể hiện mà dùng dấu sắc, dẫu ngã thì nội dung
thơ sai hoàn toàn với ý tác giả.
Trong tiếng Tày vùng Nghĩa
Đô còn có một số tiếng láy chệch sang âm khác dùng để tập cho trẻ con học
nói, mang tính chất trìu mến, yêu thương. Khi tiếp xúc với trẻ, người lớn
nói ra, người ta hiểu ngay đó là tiếng dạy trẻ. Những từ này, khi tiếp xúc
với người lớn mà không có trẻ con, ai vô tình phát ra là có chuyện ngay,
người ta cho là khinh bỉ, nhạo báng, coi mình như trẻ con. Có nhiều trường
hợp đánh nhau, làm mất tình nghĩa bà con, anh em vì nói đùa hoặc vô tình
phát ra.
Trong giao tiếp ở tiếng
Tày Nghĩa Đô hay dùng một số từ đồng âm khác nghĩa, điển hình nhất là hai từ
không và có. Ví dụ: từ mí là có, nhưng dùng từ mí kèm theo sau một từ mí nữa
thành cụm từ mí mí là không có, mí lăn là không thấy, mí chắc là không biết,
mí đẩy là không được... Từ mí trước trở thành không, chỉ dùng mỗi từ mí cuối
câu mới là có...
Trải qua quá trình lâu dài
trong cuộc mưu sinh, người Tày vùng Nghĩa Đô đã tạo ra bản sắc riêng trong
kho tàng văn hoá độc đáo của mình. Từ đời này sang đời khác, cùng với việc
truyền lại ngọn lửa, hạt giống, họ còn truyền lại cho con, cháu tiếng nói
của dân tộc mình. Đó là giá trị văn hoá vô giá của người Tày nơi đây.
K.D (st)