Dân số Ngái năm 1999 là 4.841 người, cư trú ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, là thành phố Hồ Chí Minh. Cộng đồng người Ngái gồm có các nhóm địa phương: Ngái Hắc Cá, Sín, Đản, Lê. Tên tự gọi chung là Sán Ngái (người miền núi).
Dân số Ngái năm 1999 là 4.841 người, cư trú ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên và thành phố Hồ Chí Minh. Cộng đồng người Ngái gồm có các nhóm địa phương: Ngái Hắc Cá, Sín, Đản, Lê. Tên tự gọi chung là Sán Ngái (người miền núi).
Tiếng nói người Ngái thuộc nhóm ngôn ngữ Hán. Người Ngái chủ yếu bàng nghề làm ruộng trồng lúa, ở vùng hải đảo, ven biển thì đánh cá là chính. Đồng bào có truyền thống đào kênh, mương, đắp đập, tạo hồ nước, đắp đê biển. Có những nghề thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói...
Trang phục Ngái giống người Hoa (Hán). Ngoài quần áo, đồng bào còn đội mũ, nón các loại tự làm từ lá, mây tre, đồng thời đội khăn, che ô.
Người Ngái thường lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng hoặc ven biển, trên đảo. Nhà phổ biến là nhà ba gian hai chái. Trong gia đình, người chồng quyết định mọi việc lớn, con trai được coi trọng hơn, con gái không được chia gia tài khi cha mẹ chết và phải về nhà chồng sau khi cười. Xưa kia, trai gái Ngái được cha mẹ dựng vợ gả chồng phải trải qua hai lần cười: lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Để cưới vợ cho con, nhà trai chủ động chọn tìm đối tượng dạm hỏi. Khi có thai, phụ nữ Ngái kiêng cữ rất cẩn thận: không ăn ốc, thịt bò, dê, không may vá hay mua quần áo. Sau khi sinh con 60 ngày đối với con đầu, 40 ngày đối với con thứ, người sản phụ mới được đến nhà mẹ đẻ của mình.
Theo phong tục Ngái, người chết được tổ chức đám ma chu đáo. Sau khi chôn cất được cúng vào dịp 21 ngày, 35 ngày, 42 ngày, 49 ngày, 63 ngày, 70 ngày, 3 năm thì làm lễ đoạn tang. Người Ngái coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và các loại thần, ma ... Các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên, thôn xóm nào cũng có đền, chùa. Đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người Ngái.
Người Ngái có lối hát giao duyên nam nữ, gọi là Sường cô rất phong phú. Có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Tục ngữ có ý nghĩa răn dạy về kinh nghiệm làm ăn, về cách sống. Nhiều trò chơi được ưa thích như múa sư tử, múa gậy, chơi rồng rắn.
K.D (st)