Theo dõi Báo Tây Ninh trên
Lòng tin vững chắc ở lý tưởng, ở thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng - đó là nét khẳng định bản lĩnh, tính cách Hồ Chí Minh như chúng ta đã biết. Và, cũng đã có lúc, như là minh chứng, hoặc như một bổ sung cho phẩm chất đó, còn là sự tiên tri, nếu có thể dùng chữ ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
Tiên tri, như một kết quả được thấy trước, được hình dung trước, có lúc ở một niên đại cụ thể như trong diễn ca “Lịch sử nước ta” (1942)(1), có lúc trong một câu chuyện kể, như trong “Giấc ngủ mười năm” (1948).
Ở thời điểm tháng 12/1942, viết diễn ca “Lịch sử nước ta” dài 208 câu, với mở đầu:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
và kết thúc:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Hồ Chí Minh đã điểm lại gần như đầy đủ các sự kiện lớn, các gương mặt lớn của lịch sử dân tộc kể từ ngày tổ tiên dựng nước - “Hồng Bàng là Tổ quốc ta” đến “Trước ngày khởi nghĩa Việt Minh bắt đầu”, kèm với các ảnh minh họa của chính tác giả: Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Bùi Thị Xuân.
Điều đáng lưu ý là sau kết thúc sử ca, tác giả ghi tiếp một phụ lục: Những năm quan trọng. Trong phụ lục này, tác giả ghi biên niên 30 thời điểm.
Ở dòng đầu, đó là: “Trước Tây lịch 2879: Hồng Bàng”
Và dòng cuối: 1945: “Việt Nam độc lập”
Thời điểm Hồ Chí Minh viết và ấn hành “Lịch sử nước ta” là vào cuối năm 1942. Phải ngót 3 năm sau mới đến sự kiện “Việt Nam độc lập”. Và người tiên tri “Việt Nam độc lập” ấy lúc này đang trong vai một ông Ké cách mạng với dồn dập bao công việc khẩn thiết, trọng đại nhằm chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; thế mà một diễn ca lịch sử trên 200 trang vẫn rất trôi chảy, liền mạch trong bộ nhớ của một người rất thuộc lịch sử.
Hơn thế, qua phụ lục “Những năm quan trọng”, ta còn thấy tác giả nhớ cụ thể và chính xác đến cả 29 thời điểm đã diễn ra các sự kiện lớn của lịch sử - những thời điểm mà tôi tin không phải sử gia nào cũng thuộc.
Ngót 2 năm sau ngày viết diễn ca, vào tháng 10/1944, trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, nhằm chuẩn bị cho “Toàn quốc đại biểu đại hội”, tác giả viết: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”.
Như vậy là tính từ thời điểm tháng 10/1944, cuộc tổng khởi nghĩa đã diễn ra vào tháng 8/1945, chỉ sau 10 tháng, sớm hơn dự kiến.
*
“Giấc ngủ mười năm” được tác giả viết vào năm 1948, Tổng bộ Việt Minh xuất bản năm 1949 là lúc cuộc kháng chiến còn rất gian khổ, gay go trong giai đoạn cầm cự. Nhân vật chính là anh Nông Văn Minh, một cố nông người Nùng ở Cao Bằng từ 10 đến 20 tuổi ở cho địa chủ, theo cha tham gia cách mạng; kháng chiến bùng nổ vào Vệ quốc quân; cuối 1947, bị thương ở trận Bông Lau.
Do bị thương, Nông Văn Minh bị bệnh ngủ và giấc ngủ kéo dài đến… 10 năm. Đúng vào ngày 15/8/1958, anh mới tỉnh dậy.
Và những gì anh đã được thấy sau giấc ngủ mười năm ấy? Tất nhiên, nếu đúng một trăm phần trăm như hiện thực thì đó là chuyện không tưởng và khó hiểu. Nhưng quả là cơ bản đúng: Kháng chiến thành công.
Nông Văn Minh đang nằm ở bệnh viện. Gian phòng tĩnh lặng, trần và vách trắng toát. Trên cái bàn nhỏ ở bên giường, một cốc sữa đặt trên một chiếc đĩa thủy tinh. Ngồi bên giường là một cô gái trẻ. Hồi lâu sau, trong câu chuyện, anh mới biết đấy là con gái của mình đã là sinh viên y khoa đang thực tập ở bệnh viện.
Từ những gì được kể lại sau giấc ngủ mười năm của anh Minh, chúng ta được biết: Ngày kháng chiến thắng lợi, nhân dân kéo về thủ đô: “Mỗi người cầm một lá cờ nhỏ, một đoàn dẫn đầu bằng lá cờ to. Thành thử các nẻo đường trở nên những dòng sông người và làn sóng cờ, chạy mãi, chạy mãi không ngớt. Hà Nội chật ních những người là người, phần thì bộ đội kéo về, phần thì nhân dân kéo đến. Ai cũng vui đùa, hăm hở. Cảm động nhất là anh em chiến sĩ đến đâu là dân bâu lại đó. Người biếu thứ này, kẻ tặng vật khác. Có những cụ già mừng rỡ và vui sướng quá mà khóc như trẻ con”.
Đổi thay của gia đình Minh nằm trong đổi thay chung của đất nước: “Từ thành thị đến thôn quê, không còn có một người nào mù chữ, không còn có người nào đói rách, không còn có một người nào thất nghiệp nữa. Phố xá, làng mạc, nơi nào cũng sạch sẽ, xinh tươi. Trường học, thư viện, nhà hát, phòng phát thuốc, sân thể thao nơi nào cũng có. Cờ bạc, hút sách, trộm cắp, đĩ điếm đều mất…”.
Đứng ở thời điểm 1948, lúc bộ đội còn mũ nan, chân đất đánh giặc và sau lưng là hơn 80 năm nô lệ, với 2 triệu người chết đói đầu năm 1945, mới thấy sự hình dung như trên trong “Giấc ngủ mười năm” quả là lãng mạn, nhưng lại rất hiện thực.
Viết “Giấc ngủ mười năm”, Hồ Chí Minh đã vẽ một viễn cảnh tương lai – gần gũi (chứ không quá xa xôi như các loại truyện khoa học viễn tưởng) cho nhân dân tin tưởng. Tất nhiên, để viết được như thế, người viết phải giàu lòng tin nhất. Trước đó, đầu năm 1947, chỉ sau ngày Toàn quốc kháng chiến – 19/12/1946, hơn 10 ngày, vị Chủ tịch nước lần đầu tiên đã có thư mừng xuân gửi đồng bào cả nước:
“Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập nhất định thành công”.
Cả bài thơ “phơi phới như buồm căng thẳng gió” - đúng như lời bình của Hoài Thanh.
*
Sự tiên đoán gắn với lòng tin tạo nên phẩm chất và cốt cách Hồ Chí Minh, người kết tinh ý chí, tình cảm và mơ ước của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.
Người giàu khả năng tiên đoán ấy cũng là người từng được “tiên đoán”: Năm 1919, trong nhận xét của Arnoux - sau này sẽ là Tổng mật thám Pháp ở Đông Dương: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt cây chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương” (2).
Năm 1923, trong ý kiến của Ôxip Mandenxtam - nhà thơ lớn của Liên Xô: “… từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai” (3).
Cả hai “tiên đoán” đều được lịch sử chứng minh trong sự kết hợp tuyệt vời ở bản thân con người Hồ Chí Minh hai tư cách: Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hóa.
______
(1) Lịch sử nước ta, bản in lần thứ nhất do Việt Minh tuyên truyền bộ xuất bản tháng 12/1942. Những trích dẫn dưới đây đều lấy ở Hồ Chí Minh - Tuyển tập, 2 tập; Nxb, Sự thật; H, 1980.
(2) Theo Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb, Thanh niên; H, 1976, tr.81.
(3) Báo Ngọn lửa nhỏ (tiếng Nga); số 39; 23/12/1923.
Tháng 3/2017
GS Phong Lê
Nguồn BHT