Mỗi mùa trăng, trai gái thường đến bên khe suối,
rừng cây để bày tỏ tình cảm của mình. Hàng vạn mùa trăng trôi qua đã để lại
những bài hát giao duyên chân tình, mộc mạc của hàng bao thế hệ trai gái đi sim
sáng tạo nên. Từ xưa đến nay, trai gái dân tộc Bru-Vân Kiều đến tuổi kết hôn
được tự do tìm hiểu, gọi là đi sim. Người ta bảo, những bài hát giao duyên của
người Bru- Vân Kiều từ hàng trăm năm vẫn làm say mê lòng người hiện đại là vì
chúng được hun đúc từ không gian rộng mở với cửa rừng, ánh trăng, lùm cây, khe
suối, lại được cộng hưởng với những khát khao yêu đương của tuổi xuân thì.
Điểm độc đáo của nó là trên nền giai điệu truyền
thống, trai gái phải tự sáng tác lời, sao cho ứng hợp với hoàn cảnh của mình.
Khi ta lắng nghe lời tình tự của chàng trai: “Anh là con út/ bố mẹ già vẫn ngóng
chờ anh/ người con sau cùng xây hạnh phúc”; và lời đáp của cô gái: “Em biết lắm
nỗi lòng anh đó/ và vẫn đợi ông mối bên anh” thì mới hiểu vì sao chỉ bằng vài ba
làn điệu chủ đạo đã biến hoá nên muôn ngàn bài hát giao duyên tình tứ. Thông qua
những mùa đi sim, cô gái chọn cho mình người bạn đời khoẻ mạnh, dũng cảm, thạo
nghề, ứng đối nhanh; còn chàng trai thì tìm đến những cô gái siêng năng, biết lo
toan việc gia đình, hiền hậu.
Mặc dù được tự do tìm hiểu, nhưng để đi đến kết
hôn, trai gái Bru-Vân Kiều vẫn phải thông qua ông mối của hai bên, đó là luật
tục lâu đời, đến nay vẫn còn hiệu lực. Khi chàng trai và cô gái cùng xác nhận
với ông mối bên mình là đồng ý, thì chàng trai mới được phép đưa bạc cho cô gái,
gọi là vantếch (bỏ của lần 1). Tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế mà số bạc đưa cho cô
gái dao động từ 1 đến 5 đồng. Khoảng 5 ngày sau đó, chàng trai đi atằm vantơr
(bỏ của lần 2), số bạc đưa cho cô gái thường nhiều hơn lần trước. Sau atằm
vantơr, người làm mối bên nhà gái thông báo cho bố mẹ cô gái biết rằng cô đã
nhận bạc. Khoảng 10 ngày sau, không thấy gia đình nhà gái trả lại bạc thì ông
mối bên nhà trai đến gia đình bên gái bàn định ngày rước dâu. Trong mỗi cuộc hôn
nhân, người làm mối có vai trò rất quan trọng, là sợi dây nối liền hai gia đình,
là người đi lại, chuyển tin trong từng tiến trình đi đến hôn nhân. Trong đám
cưới, ông mối là chủ hôn. Sau đám cưới, ông mối là người giảng hòa nếu đôi vợ
chồng có xích mích. Nhiệm vụ giám sát của ông mối kéo dài cho đến khi ông mối
hoặc hai vợ chồng đó qua đời.
Tục lệ thiêng liêng
Người Bru-Vân Kiều thường chọn các ngày 6, 8,
10, 16, 18 trong các tháng đầu năm và cuối năm để làm lễ cưới; đặc biệt các
tháng 11, 12 khi vừa thu hoạch xong, rất thuận tiện cho nhà có đám. Dù là tháng
nào, vẫn kiêng các ngày cuối tháng vì sợ ốm đau bệnh tật. Trong ngày cưới, điểm
nhấn đáng chú ý nhất là lúc chú rể trao kiếm cho cô gái. Đây là tục lệ thiêng
liêng đối với người Bru-Vân Kiều. Do đó, màn trao kiếm được quy phạm hoá rất
chặt chẽ, không cho phép hai bên nhà trai, nhà gái tự ý “chế tác”, thêm thắt.
Khi đến rước dâu, nhà trai đứng dưới sàn nhà gái
và hai bên sẽ đối đáp những câu hàng trăm năm nay không thay đổi. Nhà gái sẽ giả
vờ hỏi: “Các ông, các bà đi đâu?”. Nhà trai từ tốn thưa: “Chúng tôi đi rước con
gái ông bà về làm dâu”. Tiếp đến, nhà trai lại hỏi: “Các ông, các bà cần gì?”.
Lúc đó, nhà gái đưa ra những yêu cầu về lễ vật và nhà trai lần lượt trao lễ vật
cho nhà gái (Thực ra đây chỉ là màn diễn xướng đã được quy phạm hoá vì lễ vật đã
được hai bên thoả thuận thông qua người làm mối trước đó). Cuối cùng, chàng trai
đưa cho cô gái thanh kiếm, chiếc nồi đồng và đồng bạc trắng. Cô gái đưa 3 thứ đó
cho bố mẹ đẻ. Lúc này, nhà gái mới mời nhà trai lên nhà. Mẹ cô dâu cho đồng bạc
và một ít nước vào nồi đồng và bắc lên bếp. Khi nước sôi, bà sẽ đâm mũi kiếm
xuống sát cạnh nồi đồng với niềm tin mãnh liệt rằng, từ nay trở đi, không gì có
thể chia tách đôi vợ chồng này.
Sau lễ cưới này, người Bru-Vân Kiều còn bắt buộc
phải tổ chức cưới lần hai, gọi là lễ khơi (lễ hoàn tất). Khi chưa thực hiện lễ
khơi, đôi vợ chồng khi sang nhà vợ không được bước lên nhà, không được ăn chuối,
củ kiệu. Chưa hết, trâu bò của hai gia đình không được chăn thả cùng một nơi.
Những ràng buộc khắt khe đó, khiến các cặp vợ chồng dù khổ cực bao nhiêu cũng cố
dành dụm để thực hiện bằng được lễ khơi. Lễ khơi tốn kém hơn cưới lần 1 nhiều
nên thời gian tiến hành không ấn định. Khi nếp đầy kho, trâu bò đầy chuồng, gà
vịt đầy sân thì làm. Hiện nay, cùng với đời sống khấm khá hơn, nếp sống mới lan
toả đến từng bản làng nên lễ khơi không còn là nỗi ám ảnh của mỗi đôi vợ chồng
nữa.
Theo
Langvietonline