Theo dõi Báo Tây Ninh trên
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, IMF và WB đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 lên 7-7,5%.
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vượt qua thách thức, trở thành điểm sáng với đà tăng trưởng ấn tượng.
Tháng 9-2022, Ngân hàng Thế giới (WB) hạ dự báo tăng trưởng trong năm 2022 và 2023 của hơn 90% nền kinh tế phát triển, 80% nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Tháng 10.2022, WB đánh giá, thế giới đang đối mặt với "làn sóng thứ 5 của cuộc khủng hoảng nợ", nhiều quốc gia có nguy cơ mắc nợ trong bối cảnh lạm phát toàn cầu và lãi suất gia tăng. Tương tự, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2022 khoảng 3,2% và năm 2023 chỉ còn 2,7%; hơn 1/3 nền kinh tế toàn cầu sẽ chứng kiến hai quý liên tiếp tăng trưởng âm…
Nỗ lực vượt khó
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, IMF và WB đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 lên 7-7,5%. Còn Nikkei Asia đánh giá, Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 8 thế giới về đà phục hồi sau đại dịch Covid-19.
Trong khi đó, vào tháng 9-2022, Moody’s đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định (chỉ kém mức đầu tư một bậc). Fitch cũng xếp Việt Nam ở hạng BB và triển vọng tích cực. Việt Nam được kỳ vọng trở thành thị trường tiêu dùng toàn cầu lớn thứ 10 thế giới vào năm 2030, vượt qua cả Đức và Anh…
Theo báo cáo của Chính phủ trong phiên khai mạc kỳ họp thứ tư của Quốc hội, ngày 20-10-2022, kinh tế nước ta phục hồi mạnh mẽ và sẽ là năm đầu tiên trong giai đoạn 3 năm dịch Covid-19, Việt Nam đạt và vượt 13/15 chỉ tiêu kinh tế đặt ra, một chỉ tiêu xấp xỉ đạt với tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 8,02%.
Đặc biệt, xuất khẩu của Việt Nam nổi lên như điểm sáng cả về kim ngạch, mức xuất siêu, cơ cấu hàng hóa và sự phục hồi thị trường. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, vượt kết quả năm 2021 (668,5 tỷ USD).
Trong đó, xuất khẩu ước đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6%; xuất siêu ước đạt 11,2 tỷ USD. 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong số này có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD.
Lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt kim ngạch 11 tỷ USD), tức về đích trước hẹn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là đạt 10 tỷ USD vào năm 2025. Tất cả các thị trường xuất khẩu đều phục hồi so với năm 2021. Trong đó, các thị trường là đối tác ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Việt Nam có tăng trưởng ở mức cao, như: Liên minh châu Âu (EU) tăng 23,5%; khu vực Đông Nam Á tăng 23,3%.
Do hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng khả quan, thu ngân sách nhà nước năm 2022 đã vượt hơn 26,4% so với dự toán…
Thành quả trên là sự hội tụ từ nỗ lực của các cấp, ngành và cộng đồng doanh nghiệp, sự đoàn kết và ủng hộ của người dân, đặc biệt là từ việc chuyển hướng chiến lược chống dịch Covid-19, mở cửa, phục hồi kinh tế hiệu quả và bám sát các nguyên tắc nền tảng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Trong đó, nổi bật là xây dựng nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, đối tác tin cậy, trách nhiệm vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển; hướng đến con người, lấy con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển.
Triển vọng năm 2023
Năm 2023, Việt Nam đạt ngưỡng 100 triệu dân và quy mô GDP cán mốc 10 triệu tỷ đồng. Dù nền kinh tế Việt Nam đang có đà phục hồi mạnh mẽ, nhưng những bất định cũng gia tăng khiến tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu có thể chậm lại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa có đột phá rõ rệt.
Là nền kinh tế có độ mở cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro trước xu hướng kinh tế thế giới đang ở thời điểm mong manh, tăng trưởng chậm lại, thậm chí rơi vào suy thoái cục bộ ngắn hạn; biến đổi khí hậu ngày càng bất thường, cùng với các căng thẳng địa chính trị ngày càng phức tạp, Việt Nam đang đối diện với áp lực trong điều hành.
Đặc biệt là giá hàng hóa, lãi suất, tỷ giá trước xu hướng lạm phát toàn cầu tăng cao và chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Mỹ và châu Âu (hai thị trường xuất khẩu chính chiếm 41% thị phần xuất khẩu của Việt Nam). Hơn nữa, dịch bệnh đang tiếp tục diễn biến phức tạp, trong khi công tác phòng, chống dịch và năng lực y tế dự phòng còn không ít hạn chế.
Sự cảnh báo nóng gắn với các thách thức về triển vọng kinh tế thế giới và nội lực kinh tế cùng những rủi ro và bất cập trong quản lý thị trường, đòi hỏi chúng ta kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; triển khai đồng bộ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao năng lực thể chế, tính minh bạch và hiệu quả cho thị trường, củng cố tâm lý và niềm tin của nhà đầu tư…
Hơn nữa, thực tiễn cũng đòi hỏi cần có nhiều đột phá đồng bộ, thực chất cả trong nhận thức và thể chế để tháo gỡ điểm nghẽn về ổn định cung - cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu (nổi bật là xăng, dầu) cho sản xuất, đời sống; tăng cường kiểm soát và lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản và thị trường tín dụng, lao động, cũng như trong tái cơ cấu kinh tế và định hướng lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), thúc đẩy liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước; tiếp tục đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đi đôi với đó là thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo...
Giải pháp cần được chú trọng nữa là chủ động khai thác tốt hơn các cơ hội kinh tế gắn với việc tham gia các hiệp định thương mại thế hệ mới, từ mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam - Hàn Quốc và Mỹ - ASEAN mới được thiết lập cuối năm 2022.
Đặc biệt, tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường, chủ động đánh giá các tác động và thông tin dự báo tình hình thị trường hàng hóa trong nước và thế giới, từ đó tăng năng lực phản ứng chính sách và phản ứng thị trường linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, hướng tới hài hòa cơ cấu hàng hóa, cơ cấu thị trường và cán cân thương mại với từng thị trường; hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn; hài hòa cơ hội tham gia và hưởng thụ thành quả tăng trưởng.
Nâng cao hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa Việt Nam; phát triển xuất, nhập khẩu phải gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.
Phát huy các thành công, không chủ quan, tự mãn và khai thác tốt hơn các động lực từ nền tảng đã có, chủ động nhận diện và linh hoạt vượt qua các thách thức, vừa chia sẻ niềm vui, tự tin và tự hào, vừa tỉnh táo hành động đúng cả trong kinh doanh và trong quản lý, cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài, nhằm tiếp tục hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.
Đó là tăng trưởng GDP khoảng 6,5%; Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 4,5%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 5-6%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1-1,5%...
Nguồn hanoimoi