BAOTAYNINH.VN trên Google News

Vàm Cỏ Đông ký sự:

Kỳ XII: Dòng sông chở nặng chiến công 

Cập nhật ngày: 25/07/2024 - 23:08

BTNO - “Ơ... ơi, Vàm Cỏ Đông, ơi hỡi dòng sông/ Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng/ Đuổi Pháp đi rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng”. Câu ca dung dị ấy đã toát lên truyền thống chống giặc giữ nước của những người dân Tây Ninh anh dũng kiên cường. Không chỉ trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Vàm Cỏ Đông chở nặng chiến công mà từ thời xa xưa, dòng sông này gắn liền với lịch sử của vùng đất Tây Ninh.

Địa danh Bến Trường ngày nay.

Thời sông Quang Hóa 

Theo dòng lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Tây Ninh, dòng sông Vàm Cỏ Đông đã ít nhiều ghi dấu những chiến công anh hùng. Điển hình như địa danh Bến Trường (thuộc ấp Trường, xã Hảo Đước, huyện Châu Thành ngày nay).

Theo ông Nguyễn Quốc Việt, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Tây Ninh- người có nhiều năm nghiên cứu văn hóa, lịch sử Tây Ninh, thời xa xưa, khu vực Bến Trường này là trường luyện quân của quân đội triều Nguyễn.

Ở bến sông này ngày xưa có một thời tấp nập ghe thuyền. Những ghe ô, ghe lê của triều Nguyễn chở quân đến và chở đi đến những vùng đất khác để bảo vệ biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc.

Lúc bấy giờ, người dân Tây Ninh loan truyền về kỳ tích của hai anh em tướng quân Lê Ngọc Vương và Lê Ngọc Báu. Khoảng đầu năm 1840 có giặc từ bên kia biên giới theo dòng sông này tràn sang và đã xảy ra cuộc chiến tranh giữa Đại Việt, Xiêm La và Chân Lạp. Trong trận đại chiến đó, vị tướng Lê Ngọc Vương bị thương nặng và thuyền của ông đắm, cách Bến Trường khoảng hơn 1 km về phía hạ nguồn.

Sau đó, ông men theo bờ sông đi đến một đất có cây xanh che mát, rồi gục ngã ở đó. Theo lời kể của người dân địa phương, sau đó, nơi tướng Vương mất, mối đất đùn lên thành ngôi mộ. Những năm sau, người dân xây dựng bên hữu ngạn sông Vàm ngôi mộ cho tướng Lê Ngọc Vương và ngôi miếu thờ ông.

Miếu thờ Quan lớn đại thần Lê Ngọc Vương.

Sau nhiều lần được thế hệ con cháu trùng tu, tôn tạo, hiện nay, ngôi mộ của vị tướng này được xây theo kiến trúc hình chiếc thuyền. Mũi quay ra hướng sông Vàm, xung quanh mộ lát gạch men màu xanh cẩm thạch. Trước bia mộ có một căn nhà sàn cột bê tông xi măng, khung sắt, lợp tôn vững chắc. Trong nhà sàn có ngôi miếu thờ với dòng chữ “Quan lớn đại thần Lê Ngọc Vương”.

Trên bệ thờ có đầy đủ nhang, đèn, lư hương, hoa, quả, có tượng tứ linh gồm long, lân, quy, phụng và đôi ngựa chầu xung quanh. Ông Nguyễn Quốc Việt cho biết thêm, hằng năm, vào ngày giỗ của tướng Lê Ngọc Vương (18.1 âm lịch), người dân địa phương đều tổ chức xuồng ghe đưa cư dân từ bên Bến Trường sang khu mộ này tham quan, cúng viếng.

Từ Bến Trường, chúng tôi theo ghe rẽ sóng vào sông Vịnh- một chi lưu của sông Vàm Cỏ Đông. Nhánh sông này không rộng lớn lắm, chỉ như một con rạch, nhưng quanh co, hai bên bờ địa hình hiểm trở. Có lẽ vì thế, thời kỳ xa xưa, ông Huỳnh Công Nghệ, một trong những anh em họ Huỳnh - những người thuộc thế hệ đầu tiên mang gươm mở cõi Tây Ninh đã chọn nơi này để lập đồn trú. Cả trăm năm nay, trên bờ sông Vịnh, người dân xây dựng một dinh thờ Quan lớn Trà Vong Huỳnh Công Nghệ, thuộc ấp Bình Lợi, xã Hảo Đước, huyện Châu Thành.

Ngôi mộ của ông Quan lớn đại thần.

Trước Dinh có xây bến thuyền để thuận lợi cho người dân địa phương đến Dinh cúng viếng. Ông Huỳnh Công Nghệ là một trong những vị tướng, con của ông Huỳnh Công Cẩn, ở đàng ngoài. Vào khoảng năm 1749 (năm Kỷ Tỵ), Triều đình Huế phân công ông vào Nam dẹp loạn, lập ấp, giữ gìn an ninh. Ông và đội binh mã của mình đã lập nhiều chiến công hiển hách và đã hy sinh trên vùng đất Tây Ninh.

Trong Dinh thờ, bên cạnh đôi tượng ngựa, còn có 2 chiếc thuyền rồng bằng gỗ. Những chiếc thuyền này được cho rằng là phương tiện để ông đi lại trên dòng sông Vịnh. Hằng năm, vào dịp cúng giỗ ông, nơi đây đều có nghi thức thả thuyền trên sông để tưởng nhớ về bậc tiền nhân có công với vùng đất Tây Ninh từ thuở xa xưa.

Theo lời ông Nguyễn Quốc Việt, vị thế Dinh thờ Đại thần Huỳnh Công Nghệ hiện nay có thể là nơi đồn trú của ông Nghệ ngày xưa. Ở đoạn sông này là một khúc “cua” chữ A, mũi nhọn của chữ A là nơi có dinh thờ. “Với địa thế này, khi thuyền bè qua đây đều phải di chuyển chậm lại. Điều đó thuận tiện cho việc binh lính trong đồn kiểm soát thuyền bè và dễ dàng ngăn quân địch nếu chúng tiến về đồn Trà Vong bằng đường thuỷ”, ông Việt giải thích.

Ông Trần Văn Thu, người quản lý Dinh thờ cho biết, hiện nay trên đất Tây Ninh có khoảng 4- 5 ngôi đền, miếu, dinh thờ ông Huỳnh Công Nghệ, nhưng Dinh thờ này có thể là cổ nhất. Từ năm 2019 đến nay, dưới bến sông này xuất hiện đàn cá thiên nhiên với số lượng ước tính cả tấn, trong đó có nhiều loại như cá sát, cá he, cá chốt, cá tra v.v… Hằng ngày các thành viên Ban Quản lý Dinh thờ hoặc người dân địa phương dùng cám thức ăn gia súc rải xuống sông Vịnh cho đàn cá ăn.

Thành viên Ban Quản lý Dinh thờ Quan lớn đại thần Huỳnh Công Nghệ rải cám xuống sông Vịnh cho đàn cá thiên nhiên ăn.

Thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

Thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chi lưu của sông sông Vàm Cỏ Đông cũng từng ghi dấu chiến tích lẫy lừng. Ở thượng nguồn sông Vịnh còn đậm chiến công của ông Trương Quyền- con trai Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định. Theo Bách khoa toàn thử mở (Wikipedia), năm 1859, Trương Định khởi binh chống Pháp, khi mới 17 tuổi, Trương Quyền theo cha ra trận.

Năm 1864, Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết tại Ao Dinh (Gò Công). Nối chí cha, Trương Quyền dẫn quân đến vùng Đồng Tháp Mười và Tây Ninh (vùng An Cơ cũ) lập chiến khu tiếp tục kháng chiến. Ông đã liên kết với một số lực lượng khác đánh thắng nhiều trận ở sông Vịnh, Trà Vong (Tây Ninh). Nổi bật là cuộc đụng độ lớn đã xảy ra ở rạch Vịnh ngày 14.6.1886, Thiếu tá Marchaise tử trận.

Trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sông Vàm Cỏ Đông còn gắn liền với những chiến công của quân và dân Tây Ninh.

Thượng nguồn sông Vịnh còn là nơi ra đời bài hát "Lên ngàn" của nhạc sĩ Hoàng Việt. Bài hát về hình ảnh người vợ lính chan chứa những tình cảm sâu đậm, chèo thuyền ngược dòng sông Vàm Cỏ Đông lên rẫy cắt lúa thay chồng nuôi con. Bách khoa toàn thử mở ghi lại lời kể của cố nhạc sĩ Xuân Hồng: vào năm 1952, khi ông là Ủy viên ban chấp hành Huyện đoàn Châu Thành, kiêm phụ trách phó đoàn tuyên truyền lưu động huyện.

Năm ấy Đoàn Văn công liên khu miền Đông có dịp đến địa phương công tác, trong đó có nhạc sĩ Hoàng Việt. Gần cuối năm, xảy ra cơn lũ lịch sử năm Nhâm Thìn, nhấn chìm một vùng rộng lớn ruộng lúa canh tác của nhân dân. Chỉ còn một vùng nương rẫy rất nhỏ tại Trảng Cồng thuộc xã Hòa Hiệp (nay thuộc xã Phước Vinh, huyện Châu Thành) không bị ngập.

Sông Vàm Cỏ Đông gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Tây Ninh.

Nhân dân các xã khác kéo nhau về Trảng Cồng gặt lúa mướn, đi mót lúa rơi để độ nhật qua ngày. "Trong số đoàn người ngược dòng sông Vàm Cỏ hướng về rẫy Trảng Cồng có Đoàn Văn công liên khu miền Đông và đoàn tuyên truyền lưu động của chúng tôi. Chúng tôi xin đi cắt lúa mướn, được nhân dân "chiếu cố" nhận cho làm, có nơi còn cho ăn cơm độn khoai mì, vậy là rất vững bụng.

Chỉ thương các chị, các cô con bế con bồng, có khi xin làm mướn không dễ, vì quá đông người, phải đi nhặt từng hạt lúa rơi vãi, chỉ mong có được nồi cháo trong ngày. Những cảnh ấy đều lọt vào mắt người nhạc sĩ tài năng của chúng ta. Bài "Lên ngàn" ra đời trong hoàn cảnh ấy".

Trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sông Vàm Cỏ Đông còn gắn liền với những nhiệm vụ đưa quân, tải đạn, vận chuyển lương thực của quân và dân Tây Ninh. Những chiến công thầm lặng ấy đã được khắc họa vào thơ và nhạc. Nhà thơ Hoài Vũ đã viết: “Đây con sông như dòng lịch sử/ Sáng ngời tên từ thuở Cha Ông/ Đã bao phen đoàn quân cảm tử/ Vùi đáy sông xác giặc tanh nồng”. Từ bài thơ này, Nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc bài hát cùng tên Vàm Cỏ Đông nổi tiếng một thời và mãi mãi.

Qua thực tế cho thấy, Vàm Cỏ Đông và những nhánh nhỏ của con sông này là một biên niên sử ghi lại cả một quá trình chống giặc giữ nước của người Tây Ninh từ thời mở cõi cho đến ngày quê hương sạch bóng quân thù.

Đại Dương

Tin liên quan
  • Kỳ I: Dòng sông chở nặng phù sa

    Kỳ I: Dòng sông chở nặng phù sa

    Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ vùng đồng bằng trũng thấp của đất bạn Campuchia chảy vào Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, dòng sông này trải dài khoảng 100 km.

  • Kỳ II: Dấu ấn tiền nhân đi mở cõi 

    Kỳ II: Dấu ấn tiền nhân đi mở cõi

    Cuối thế kỷ 17, có khoảng 1.000 lưu dân theo chân các quan quân nhà Nguyễn đến vùng Tây Ninh khai khẩn đất hoang, lập nên những thôn làng đầu tiên.

  • Kỳ III: Những gia tộc sớm đặt chân đến Tây Ninh

    Kỳ III: Những gia tộc sớm đặt chân đến Tây Ninh

    Thời mở đất, có nhiều gia tộc từ miền Trung sớm đặt chân đến vùng đất Tây Ninh, cùng góp công góp sức, biến vùng đất hoang vu Tây Ninh xưa trở nên trù phú.

  • Kỳ IV: Những ngôi chùa cổ kính ven sông 

    Kỳ IV: Những ngôi chùa cổ kính ven sông

    Lịch sử khai khẩn Tây Ninh ghi nhận Trảng Bàng là vùng đất đầu tiên các di dân đến định cư. Bên cạnh những thửa ruộng mới khai phá, nhiều ngôi đình, chùa được dựng lên để làm chỗ dựa tinh thần cho cư dân trên vùng đất mới.

  • Kỳ V: Nhạc lễ và đờn ca tài tử trên đất Tây Ninh 

    Kỳ V: Nhạc lễ và đờn ca tài tử trên đất Tây Ninh

    Bên cạnh loại hình nhạc lễ của đạo Cao Đài, nghệ thuật đờn ca tài tử trên vùng đất Tây Ninh phát triển khá mạnh, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của cư dân ven dòng sông Vàm Cỏ Đông thơ mộng.

  • Kỳ VI: Những cánh đồng màu mỡ ven sông  

    Kỳ VI: Những cánh đồng màu mỡ ven sông

    Từ bao đời nay, dòng sông Vàm Cỏ Đông lặng lẽ chở nặng phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ven sông. Những nơi ấy được ví như “vựa lúa” trù phú của vùng đất Tây Ninh.

  • Kỳ VII: Đặc sản từ gạo sông Vàm 

    Kỳ VII: Đặc sản từ gạo sông Vàm

    Dòng nước mát và những hạt phù sa của sông Vàm Cỏ Đông đã tạo ra nhiều nông sản thơm ngon cho vùng đất Tây Ninh. Từ những hạt gạo mộc mạc, qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân hoá thành những đặc sản ngon nức tiếng gần xa.

  • Kỳ VIII: Phát triển công nghiệp ven sông 

    Kỳ VIII: Phát triển công nghiệp ven sông

    Không chỉ có những cánh đồng mênh mông bát ngát làm nên mùa vàng cho nông nghiệp, mà ven sông Vàm Cỏ Đông còn có những nhà máy, khu công nghiệp hiện đại đã trở thành “đầu tàu” cho nền công nghiệp Tây Ninh.

  • Kỳ IX: Bến cảng dọc sông Vàm Cỏ Đông

    Kỳ IX: Bến cảng dọc sông Vàm Cỏ Đông

    Hàng trăm năm trước, sông Vàm Cỏ Đông là thủy lộ chính của những lưu dân người Việt lên khai khẩn đất đai và giữ gìn bờ cõi. Ngày nay, với lợi thế giao thông đường thủy, hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông đã xây dựng nhiều bến cảng, góp phần phát triển kinh tế Tây Ninh.

  • Kỳ X: Đặc sản rau sông và cây trái 

    Kỳ X: Đặc sản rau sông và cây trái

    Bao đời nay, phù sa sông Vàm Cỏ Đông đã tạo nên những vườn cây ăn trái xum xuê và nhiều loại rau sông đặc sản. Những mảnh vườn rau, trái ấy đang dần biến Tây Ninh trở thành một trong những trung tâm cây trái của miền Đông Nam bộ.

  • Kỳ XI: Kiếm sống trên sông 

    Kỳ XI: Kiếm sống trên sông

    Từ xưa đến nay, sông Vàm Cỏ Đông luôn chứa đựng nguồn thuỷ sản dồi dào. Nhiều ngư dân địa phương nhờ vào nguồn lợi thuỷ sản này nuôi sống gia đình.