Văn hóa - Giải trí   Đất nước mến yêu

BAOTAYNINH.VN trên Google News

Lạ kỳ làng thờ... chó đá ở Hà Nội

Cập nhật ngày: 25/10/2011 - 12:25

Từ nhiều đời nay, người dân làng Địch Vị, Phương Đình, Đan Phượng, Hà Nội có bất cứ chuyện sai trái hay oan khuất gì lại tìm đến đền thờ “chó đá” xin chứng giám. Nơi “ngài” ngự, tuyệt nhiên không ai dám xâm phạm…

Phong tục lạ kỳ

Bức tượng chó đá ngự uy nghi trên bệ thờ nằm trong quần thể đình chùa của làng Địch Vị ước tính hơn bốn trăm năm nay. Bức tượng được đục đẽo bằng đá thô sơ, cao khoảng hơn một mét, nặng vài tạ, bên cạnh có 13 con chó con quây quần xung quanh ấy được người dân trong làng kính cẩn gọi là Quan lớn Hoàng Thạch.

Nhấp ngụm nước chè, ông Nguyễn Hữu Băng, chủ lễ đình Địch Vĩ, nói với giọng kính cẩn: Từ bao đời nay, việc thờ cúng, nhang khói “ông Hoàng Thạch” cũng trở thành tục lệ không thể thiếu của người dân khắp thôn xóm, thậm chí cả các làng xung quanh mỗi ngày rằm, mùng một, hay lễ Tết. Tuy nhiên, không ai biết chính xác bức tượng này có từ khi nào, chỉ biết rằng, từ khi tôi lớn lên đã thấy “ngài” ngự ở đình làng.

Dân trong làng, có bất cứ chuyện gì cũng tìm đến “ngài” để cầu khấn. Chẳng hạn, hai người xảy ra tranh chấp hay mâu thuẫn cũng kéo nhau đến đền thờ Quan lớn Hoàng Thạch để thề bồi. Trước mặt Quan lớn, một người sẽ chặt đứt cây chuối hoặc đập vỡ bát và cất lời thề để ngài chứng giám. Nếu lời người thề bồi mà sai trái ắt sẽ bị thần quở mà gặp tai ương, tính mạng khó giữ. Chính vì thế, nhiều mâu thuẫn của dân làng cũng nhờ ngài mà được hoá giải.

Những người lỡ làm chuyện không tốt cũng tìm đến đền thờ Hoàng Thạch để sám hối, nếu không tâm cũng không yên mà trong lòng áy náy, day dứt rồi sinh bệnh tật”.

Theo lời ông Băng, cũng chính bởi những câu chuyện linh thiêng về Quan lớn Hoàng Thạch mà dân làng tuyệt nhiên không ai dám xâm phạm đến nơi “ngài” ngự.

“Đợt gần đây, trong khi tu sửa lại đình chùa, chúng tôi có xin chuyển ngài sang bệ thờ mới cách đấy vài mét. Cây đinh lăng già nằm sát nơi ngài ngự vì thế mà cũng phải chặt bỏ, đào rễ để tiện cho việc xây bệ mới.

Nghĩ bỏ đi thì phí nên vài người làng đã mang rễ đinh lăng về nhà để ngâm thuốc. Vậy mà chỉ trong vòng chưa đến một tuần, tất cả những người ấy đều lăn ra ốm. Người thì nằm liệt giường, người sốt hầm hập ăn nói lảm nhảm. Người nhà bệnh nhân chạy chữa, khám xét mãi cũng không khỏi, chẳng ai hiểu thực chất là mắc bệnh gì.

Sau có cụ già trong làng đến thăm có hỏi: “Có phạm gì chỗ đền “ông Hoàng Thạch” không? Nếu có thì phải đem trả mau”. Người nhà nghe vậy mới vội vàng làm lễ dâng ngài xin thứ tội, những người bệnh cũng tự nhiên mà khỏi, chốc lát lại khỏe mạnh bình thường.

Sau chuyện này, ai ai cũng lấy đó mà nể sợ. Chính vì thế, củi rả trong đình chất hàng đống nhưng không một ai dám mang về nhà. Cũng có người “liều” mang về nhà làm củi đun. Nhưng củi lửa thì cháy bùng bùng mà cơm nấu không tài nào chín. Đến bây giờ, có cho cũng không ai dám lấy”, ông Băng kể.

Theo lời ông Băng, nhiều người dân trong làng mắc bệnh nan y, “bệnh viện trả về” mà ra cầu khấn với “ông Hoàng Thạch” bỗng chốc lại đi lại bình thường, sức khỏe hồi phục.

“Chẳng hiểu vì ngài linh thiêng phù hộ cho khỏi bệnh, hay nhờ cầu khấn ngài mà tâm lý người bệnh được thanh thản, tinh thần phấn chấn rồi bệnh tình cũng vì thế thuyên giảm hay không. Tuy nhiên, dân làng tôi cũng lấy những chuyện ấy mà càng trọng vọng, tôn kính “ngài” hơn”, ông Băng gật gù.

Cũng theo lời ông Băng, tượng Quan lớn Hoàng Thạch được xây cao, mắt hướng thẳng sang làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, Hà Nội), nhìn về phía Tây, cách khoảng 4km, nằm men theo con sông Hồng thủa trước. Dân làng vẫn thường đồn rằng, tất cả những nhà nằm chắn hoặc che khuất tầm mắt của ngài đều sẽ gặp vận rủi. Vì vậy, ai có phần đất nằm ngang lối ấy khi xây nhà đều gắng xây tránh ra.

“Nhà thờ ở Trại Tụt, xã Thọ An, xây bao nhiêu năm nay không được. Cứ xây lên, có hình có khối, có khi sắp hoàn thành lại… tự nhiên bốc cháy, giờ vẫn bỏ dở dang. Người ta bảo, ấy là do chắn tầm nhìn của Quan lớn Hoàng Thạch”, ông Băng cho hay.

Truyền thuyết liêu trai

Kính cẩn, trọng vọng bức tượng “chó đá” Quan lớn Hoàng Thạch, nhưng những người am hiểu hay biết nguồn gốc của tượng thần trong làng, theo ông Băng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Theo lời chỉ dẫn của ông, chúng tôi tìm đến nhà cụ Nguyễn Văn Toàn, người được cho là am hiểu nhiều về lịch sử của làng và nếu may mắn, chúng tôi có thể tìm hiểu được về nguồn gốc của bức tượng trứ danh kia.

Cụ Toàn năm nay đã bước sang tuổi 82 và là một trong những người cao tuổi nhất làng, nhưng khi hỏi về bức tượng chó đá, cụ cũng lắc đầu nguây nguẩy. Cụ bảo, nguồn gốc thực sự thì không ai nắm được, cũng không có sổ sách nào chép lại, tuy nhiên, khi còn là một cậu bé, cụ đã được cha ông kể lại một câu chuyện truyền thuyết về “ông Hoàng Thạch”.

“Câu chuyện truyền thuyết bắt nguồn từ một gia đình có hai anh em ở Hát Môn cách đây đã ngoài 400 năm. Người anh là một vị quan trong triều đình, ở nhà chỉ còn em trai với chị dâu.

Ngăn buồng của chị dâu và em trai là một vách đất thủng một lỗ to bằng nắm tay. Đêm đêm, khi ngủ, người em thường thò tay qua bức vách đặt lên bụng chị dâu vì sợ chị ngoại tình. Thế nhưng, vài tháng sau khi vị quan kia về thì thấy vợ mình có chửa, nghi em trai dan díu với chị dâu, trong lúc nóng giận, vị quan đã sai người giết chết em trai cho hả giận.

Người em sau khi chết oan, về báo mộng cho người làng nỗi khổ của mình và yêu cầu nhân dân dựng cho mình một bức tượng. Bức tượng ấy sau khi hoàn thành thì được thả xuôi theo dòng sông.

Bức tượng trôi đến địa phận xã Thọ Xuân, nằm đối diện làng Địch Vĩ, ngăn bởi con sông Hồng. Lúc bấy giờ, dân làng mới đổ ra xem pho tượng lạ. Nghĩ hẳn là pho tượng quý, người dân Thọ Xuân cử hàng trăm thanh niên trai tráng ra khiêng tượng về, nhưng không thể khiêng nổi. Bấy giờ, bốn người thôn Địch Thượng mới hò nhau ra khiêng thử, lạ thay, bức tượng bỗng nhẹ bẫng. Biết là tượng đã chọn làng mình, dân Địch Thượng mới mang tượng “chó đá” mà sau tôn làm Quan lớn Hoàng Thạch và thờ cúng cho đến nay.

Đôi mắt tượng được dựng hướng về Hát Môn cũng chính là hướng về quê hương cũng là vì lẽ đó. Tục thờ cúng Quan lớn Hoàng Thạch có từ ngày bấy cho đến nay đó cũng trở thành nét văn hoá tín ngưỡng đặc trưng của làng”, cụ Toàn kể.

Theo Dân Việt

 


 
Liên kết hữu ích