Ðây là những loại hình tín ngưỡng có tính đặc
trưng, không chỉ phản ánh đời sống lao động sản xuất mà còn là cách để ngư
dân giải trí, tâm tình sau những ngày lao động mệt nhọc, lênh đênh trên
biển; là một tiết lễ gắn liền với chu kỳ đánh bắt thủy hải sản và chu kỳ các
tiết lễ diễn ra trong năm như: Nghi thức cúng đầm, lễ ra nghề, lễ tế đình
làng, Tết âm lịch, lễ thanh minh, lễ cúng phòng long... Như ngày 20.3 (tức
16.2 năm Tân Mão) mới đây, tại "lăng Ông Nam Hải" ở thôn Bình Thái (huyện
Tuy Phước), bà con ngư dân lại long trọng tổ chức Lễ hội cầu ngư năm 2011.
Cầu ngư là lễ tiết quan trọng nhất trong những lễ
thức của chu kỳ đánh bắt thủy hải sản của ngư dân miền biển Bình Ðịnh. Theo
thống kê hiện nay, trên địa bàn tỉnh hiện có 21 lăng Nam Hải thờ cá voi (cá Ông)
tại một số làng ven biển ở các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và
thành phố Quy Nhơn. Gắn liền với các địa điểm này là lễ hội cầu ngư với quy mô
lớn nhỏ khác nhau, diễn ra trong thời gian khác nhau, tuy diễn trình cũng có
điểm tương đồng, điểm riêng biệt. Ngày diễn ra lễ hội thường là ngày Ông lụy (cá
voi chết, dạt vào bờ biển làng chài), dân làng quan niệm được phúc lành khi tổ
chức mai táng, cúng tế cá Ông. Rồi vào ngày đó của những năm sau đó lễ hội lại
được tổ chức, dần dần trở thành tập quán lễ hội của làng chài. Lễ hội gắn liền
với tục thờ cúng cá voi, với nhiều truyền thuyết, nhiều nét văn hoá còn ghi đậm
trong dân gian. Ở Bình Ðịnh có lẽ lăng Nam Hải làng Hưng Lương xã bán đảo Nhơn
Lý, thành phố Quy Nhơn là một trong những lăng có từ lâu đời.
Theo thông lệ, lễ hội diễn ra trong khoảng thời
gian ba ngày đêm. Ngày đầu tiên, tổ chức nghi thức lễ trần thiết bài vị, rồi
tiến hành nghênh thần (nghinh thủy lục), lễ an thần; ngày thứ hai tổ chức nghi
thức đại lễ tế thần; phần hội gồm hát múa bả trạo, hội xây chầu hát bội, hô bài
chòi và các trò chơi dân gian của ngư dân miền biển... diễn ra vào ngày thứ ba,
có sự đan xen trong thời gian hành lễ ở ngày đầu tiên và ngày thứ hai.
Nét đặc sắc trong lễ hội cầu ngư ở Bình Ðịnh là
hát múa bả trạo, vừa là nghi thức tế lễ vừa là hoạt động nghệ thuật. Bả trạo có
nghĩa là chèo rồi, có nơi gọi là hát bá trạo, ý nói là trăm chèo. Bả trạo là
hoạt cảnh múa hát, thể hiện sinh hoạt, lao động của ngư dân như chèo thuyền, kéo
lưới hoặc đặc tả cảnh đưa linh, rước hồn đức Ông. Kịch bản bả trạo của mỗi làng
hầu như không có sự thay đổi cơ bản từ kịch bản hát múa bả trạo của cụ Tú Diêu,
người làng Nhân Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Nơi đây đã lưu giữ nghệ
thuật hát múa bả trạo có từ thế kỷ 17, mang bóng dáng của một thể loại hát bội
cổ điển ở Bình Ðịnh. Trong toàn bộ vở tuồng hát múa bả trạo có dùng các làn điệu
nam xuân, nam ai, nói lối, ngâm xướng, hô bài chòi... Một điểm dễ nhận thấy sự
khác biệt với hát bội Bình Ðịnh là hát múa bả trạo đòi hỏi toàn bộ các nghệ nhân
phải hát cho rập trong tiếng gõ sanh của tổng Sanh. Ðộng tác hát bội truyền
thống đã được cách điệu hoá, mang tính nghệ thuật cao; còn động tác trong hát
múa bả trạo mang nặng tính thực hành, gắn với thực tế cuộc sống. Ðiểm khác biệt
khá rõ nét giữa hát múa bả trạo và hát bội như là động tác chèo thuyền, ở hát
bội chỉ là cách điệu, còn hát múa bả trạo là chèo thật.
Hát múa bả trạo có câu: Dưới sông sắp đặt đua ghe
- Trên bờ sửa soạn miếu chùa trạo ca. Tiếng hát vang rền trên sóng nước, dứt
tiếng là hô chèo lên chèo... thật nhịp nhàng, dồn dập. Bên cạnh, trong phần khởi
ca, bả trạo còn có những câu hát với nhịp điệu khẩn trương thể hiện cảnh đối đầu
với giông bão, hay bình tĩnh, nhẹ nhàng lúc biển lặng trời yên, khiến người xem
hồi hộp dõi theo từng bước chuyển, càng cảm thấy thân thương, quen thuộc với
cuộc sống hằng ngày. Ngoài ra, hát bội xưa là không thể thiếu và phải là hát bội
Bình Ðịnh, phải được biểu diễn nhiều đêm liền sau lễ hội cầu ngư.
Với nội dung sinh động chứa đựng nhiều giá trị
mang tính nhân văn cùng những làn điệu phong phú đa dạng (hò, vè, nói lối, hát
nam, hát khách...) hát múa bả trạo của lễ hội cầu ngư tuy không có kịch bản mới
nhưng vẫn được ngư dân ưa thích. Vì bả trạo tái hiện lại cuộc sống sông nước mà
ngư dân trải qua và mang trong đó lời cầu nguyện tốt lành cho gia đình, cho làng
xã. Biển và đời sống văn hoá của ngư dân miền biển nói chung, lễ hội cầu ngư nói
riêng cũng có nhiều nét tương đồng với những vùng biển khác trong khu vực duyên
hải Nam Trung Bộ, nhưng hát múa bả trạo ở Bình Ðịnh là một hoạt động văn hoá -
nghệ thuật dân gian riêng và độc đáo. Hy vọng rằng, trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Bình Ðịnh, văn hoá truyền thống văn hoá biển được giữ gìn và
phát huy.
K.D (st)