Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Long Châu Sa là tỉnh phía Tây Nam của Phân liên khu miền Đông. Phân liên khu miền Đông là một trong hai bộ phận của Nam bộ cũ, bao gồm các tỉnh từ Đồng Nai tới tả ngạn sông Tiền. Còn từ hữu ngạn sông Tiền xuống tới Cà Mau, tận cùng Tổ quốc là Phân liên khu miền Tây. Đây là sự phân chia địa giới miền Nam sau Đại hội II của Đảng năm 1950. Lúc bấy giờ tỉnh Tây Ninh sáp nhập với tỉnh Gia Định thành tỉnh Gia Ninh, thuộc Phân liên khu miền Đông.

Một đời trở lại là 60 năm sau cuộc tập kết năm 1954, những người kháng chiến từ giã gia đình, quê hương chuyển quân ra miền Bắc mới có dịp tái ngộ tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, tức thị trấn Cao Lãnh, địa điểm tập kết thuộc tỉnh Long Châu Sa ngày ấy. Gọi là “một đời” vì lẽ theo quan niệm của người Á Đông, 60 năm là một thế kỷ âm lịch, người tròn 60 tuổi là “đáo tuế”, xem như đã sống trọn một kiếp nhân sinh.
|
Đại tá Nguyễn Văn Bảy khi đi tập kết mới học lớp 3, ra miền Bắc được đi du học làm phi công, bắn rơi 7 máy bay Mỹ được phong tặng Anh hùng LLVTND.
Đoàn cán bộ lão thành, nguyên là bộ đội tập kết của tỉnh Tây Ninh đi tham dự họp mặt kỷ niệm 60 năm sự kiện tập kết chuyển quân tại Cao Lãnh hôm 28-29.10.2014 chỉ có 34 người, trong tổng số 283 người tập kết năm xưa.
Có thể vẫn còn những cán bộ tập kết sống ở Tây Ninh, nhưng theo thông tin từ Hội Cựu chiến binh tỉnh thì hiện chỉ xác định được 34 cụ. Họ là những chàng trai mười tám, đôi mươi tràn đầy nhiệt huyết của thế hệ “mùa thu rồi ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”, nay đã là các cụ lão thành trên dưới 80 tuổi, tuổi được xem là “thượng thọ”.
Được quay trở lại đi trên con đường đến khu vực tập kết thuở nào, các cụ như sống lại thời trai trẻ. Khi anh lái xe của Tỉnh đội mở đĩa “nhạc đỏ” với những bài Nhạc rừng, Lá xanh, Hò kéo pháo, Trên đỉnh Trường Sơn ta hát… các cụ cũng gõ nhịp hát theo đầy khí thế.
Xe đến Củ Chi, rẽ sang Đức Hoà, rồi theo đường N2 chạy dọc bờ kênh, khi qua huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An, bất chợt một cụ kêu lên: “Kinh Dương Văn Dương đây mà”; “Đúng rồi, hồi trước đơn vị mình đóng cặp bờ kinh Dương Văn Dương để chờ qua Cao Lãnh xuống tàu tập kết đó”.
|
Đoàn cán bộ tập kết tỉnh Tây Ninh tham dự cuộc họp mặt.
Thế là các cụ thay nhau kể, hồi đó các đơn vị bộ đội của tỉnh cùng với một số cán bộ, chiến sĩ Phân liên khu miền Đông đóng ở Tây Ninh đi Cao Lãnh tập kết bằng hai con đường: Một đường từ Châu Thành, Bến Cầu cắt ngang khu Mỏ Vẹt, đất Campuchia, đến sông Vàm Cỏ Tây đi đường thuỷ rẽ vào kênh Dương Văn Dương.
Một đường từ chiến khu Bời Lời, phía Đông Trảng Bàng qua Bàu Trai, Đức Hoà vượt hai dòng Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây vào Đồng Tháp Mười đóng bên bờ kênh Dương Văn Dương. Đường nào cũng khó khăn, gian khổ vì hành quân bộ băng qua ruộng đồng bưng trấp. Người đi còn phải mang theo mười ngày gạo củi để nấu cơm ăn dọc đường.
Ông Ba Hài (Phạm Văn Hài, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh) kể: “Hồi đó mình ở bộ đội địa phương Trảng Bàng, chiến đấu hăng lắm. Chỉ một “tổ tam tam” gồm có mình với ông Hai Khuầy (Nguyễn Văn Khuầy, cán bộ hưu trí hiện ngụ xã Hiệp Tân, Hoà Thành) và một đồng đội nữa, ba người đánh bót Suối Sâu tới ba lần, hai lần đánh đêm, một lần đánh ban ngày.
Trận cuối mình bị thương ở chân, có tật tới bây giờ, chỉ cách ngày đình chiến khoảng hơn tháng. Thành thử khi đi Cao Lãnh tập kết quân y phải cáng khiêng mình đi, cực khổ hết biết. Tới Cao Lãnh mình cũng xuống “tàu há mồm” nhưng chỉ ra tới Ô Cấp (Vũng Tàu) thì được lên máy bay ra Bắc. Hồi đó chỉ có thương binh nặng với Bác Tôn gái, vợ Bác Tôn Đức Thắng, chuyển quân bằng máy bay”.
|
Chương trình văn nghệ Giữ trọn niềm tin phục vụ cuộc họp mặt kỷ niệm 60 năm tập kết tại Cao Lãnh.
Ông Năm Tòng (Trung tá Trần Thanh Tòng, nguyên Trưởng phòng Động viên - Tuyển quân, Bộ CHQS tỉnh) góp chuyện: “Đơn vị chúng tôi từ căn cứ Bời Lời đi Cao Lãnh, khi đến đường số 1 (QL22 ngày nay) thì có một chiếc xe Jeep từ hướng Trảng Bàng chạy tới, dừng lại bên đường.
Từ trên xe một thanh niên trắng trẻo, cao lớn bước xuống đi nhanh đến chỗ tôi và ông Tư N. (Đại tá L.N) nói: “Anh em mình mỗi người một lý tưởng, thôi thì mạnh ai theo lý tưởng của người ấy. Nhưng tôi thành thật mà nói với các anh là, hai năm sau sẽ không có chuyến trở về đâu”.
Người đó là L.Q.T, sĩ quan cao cấp trong quân đội giáo phái, anh em họ của Tư N. Nghe rõ từng lời một của L.Q.T nhưng trong tôi không một chút nao núng, dao động, không một chút hoài nghi về ngày trở về. Tôi vẫn vững tin nước nhà rồi đây sẽ hoà bình, thống nhất, dù khó khăn, gian khổ nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về.
Đáp lại lời nói của L.Q.T là thái độ thờ ơ, lạnh lùng và cái nhìn đầy khinh bỉ của chúng tôi. Tôi thấy thật đáng thương hại cho một kẻ lầm đường lạc lối, một tên tướng giáo phái đang chìm sâu trong cơn mê muội. Rõ ràng với y, việc tôn giáo lập quân đội, ôm chân thực dân Pháp chống lại cách mạng, phản bội lại Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của đồng bào lại là “lý tưởng”!?
Sau cuộc gặp ngắn ngủi ấy, chúng tôi tiếp tục hành quân. Đến khu vực Tha La xóm đạo (xã An Hoà, Trảng Bàng), rất nhiều đồng bào lương, giáo đứng hai bên đường tiễn chân bộ đội. Nhìn vóc dáng to con, trắng trẻo của tôi, Tư N. một nữ giáo dân nói với theo: “Nghe nói Việt Minh ốm o lắm, lông lá đầy người, bây giờ tôi mới thấy Việt Minh cũng trẻ, khoẻ, đẹp trai quá đó chớ!”.
Tôi đứng khựng lại, nhìn chị cười to và đáp rành rọt: “Thực dân Pháp và bọn tay sai chỉ giỏi lừa mị bà con thôi, chứ bộ đội Việt Minh mình ai cũng khoẻ như voi, chị không thấy thằng Tây bự xự như vậy cũng phải chào thua đó sao!”. Sau một thời gian đóng quân ở bờ kênh Dương Văn Dương, chúng tôi được lệnh hành quân về Cao Lãnh. Ghe vừa cặp bến, rất đông bà con Cao Lãnh đứng sẵn chào đón. Thái độ niềm nở, nồng hậu, thân tình của đồng bào khiến những người từ phương xa đến như chúng tôi cảm thấy thật gần gũi, ấm áp như ở nhà của mình”.
|
Đoàn cán bộ tập kết tỉnh Tây Ninh thắp hương viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Những chuyện kể xa xưa của các cựu chiến binh kháng Pháp thật vui và cảm động khiến đoàn người hầu hết đều cao tuổi quên đi mệt mỏi đường xa. Hết địa phận Long An, sang địa phận Đồng Tháp, đoạn qua huyện Tháp Mười, chúng tôi đã đi vào giữa vùng Đồng Tháp Mười lai láng mùa nước nổi của những đầm sen xen lẫn rừng tràm.
Nhìn quang cảnh mông mênh ấy tôi chợt nhớ đến một “người lính Cụ Hồ”, cũng đi từ tỉnh Gia Ninh tập kết ra Bắc rồi trở về trong chuyến hồi kết đầu tiên, mang theo lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” từng cắm lên nóc hầm tướng De Castries ở Điện Biên phủ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cho để về giải phóng miền Nam: Ông Đặng Văn Thượng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Tây Ninh. Đi qua Đồng Tháp Mười, tôi chợt nhớ ông Sáu Thượng, bởi lẽ ông chính là người chỉ huy công cuộc cải tạo Đồng Tháp Mười, biến vùng đất hoang sơ, chua phèn mênh mông này thành vùng đất bờ xôi ruộng mật trù phú hôm nay.
Và trước đó cũng chính ông đã khơi dậy sức dân Tây Ninh xây dựng công trình thuỷ nông Dầu Tiếng, không chỉ đưa nước ngọt về tưới mát đồng xanh ở Tây Ninh mà còn cung cấp nguồn thuỷ lợi cho cả khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.
Tiếc thay người lính dày công hạn mã ấy đã ra đi vĩnh viễn mới hơn một năm nay, không kịp dự cuộc họp mặt “một đời trở lại”, kỷ niệm 60 năm tập kết ở Cao Lãnh. Và còn rất nhiều người đã một đi không trở lại, bởi lẽ thuở ấy có tới 13.508 cán bộ, chiến sĩ cách mạng xuống tàu rời bến Cao Lãnh, mà ngày nay chỉ có hơn 500 nhân chứng lịch sử về dự họp mặt.
Những người từng đến Long Châu Sa thuở trước giờ đây không khỏi ngỡ ngàng trước những đổi thay của Cao Lãnh, Đồng Tháp. Thì cũng như bao nhiêu thành phố đang trên đường phát triển đô thị hoá khắp đất nước ta, nhưng Cao Lãnh có những dấu ấn riêng của những người tập kết được trân trọng gìn giữ và tôn tạo to đẹp hơn mười ngày xưa.
Đó là khu lăng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Ngày ấy các anh Bộ đội Cụ Hồ tập kết về Cao Lãnh đã chọn từng viên gạch, hòn đá để xây mới nấm đất ôm ấp thi hài của người đã sinh ra lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới.
Và trước khi hết hạn tập kết 100 ngày, bộ đội ta đã buộc quân đội Liên hiệp Pháp (đến tạm quản Cao Lãnh hai năm theo quy định của hiệp định Genève) phải hứa tôn trọng, không được xâm phạm khu di tích thiêng liêng này. Ngày nay khu lăng mộ cụ Phó bảng được nâng cấp, trùng tu thật trang nghiêm, thành kính, đã trở thành nơi không thể không đến viếng đối với bất kỳ ai là con dân Việt Nam mỗi dịp về Cao Lãnh. Đó là khu Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ giữa lòng thị trấn, nay là thành phố Cao Lãnh cũng do bộ đội tập kết ra công xây dựng.
|
Những người lính ngày xưa xây mộ thăm lại khu lăng mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Hai ngày hội quân sau 60 năm xa cách thật vô cùng ngắn ngủi, những người lính từ các chiến trường Phân liên khu miền Đông không đủ thời gian để nói hết chuyện đời, chuyện đấu tranh với kẻ thù xâm lược, hết thực dân tới đế quốc, rồi thêm mấy chục năm công tác xây dựng lại quê hương.
Chỉ kịp hỏi thăm, nhắc nhở nhau gắng giữ gìn sức khoẻ để sống lâu hơn, để tiếp tục “truyền lửa” cho nhiều thế hệ cháu con hơn. Nhưng dường như ai cũng cảm thấy một chút ngậm ngùi khi buột miệng: gặp nhau lần này chắc là lần cuối! Vì có ai thoát khỏi quy luật muôn đời của kiếp nhân sinh hữu hạn. Có điều các cụ đã thực sự có cả một cuộc sống xứng đáng, sống có ích cho đất nước, nhân dân, như lời nhắn nhủ 60 năm trước “Đi vinh quang, ở anh dũng”.
NGUYỄN TẤN HÙNG