Có thể nói, không thể có
một Tây Ninh đổi đời nếu không có công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng, và cũng không
thể có một công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng nếu không có chú Sáu Thượng. Những ai
biết rõ hoàn cảnh lịch sử của tỉnh nhà giai đoạn ấy đều khẳng định được điều đó.
 |
Bí thư Tỉnh uỷ Đặng Văn Thượng (phải) và Chủ tịch UBND tỉnh Phan Văn
(trái) tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp (giữa) đến thăm Tây Ninh |
(BTN) - Những ai từng
sống tại Tây Ninh những năm toàn tỉnh chung sức chung lòng xây dựng hệ thống
thuỷ lợi Dầu Tiếng đều biết đến một vị lãnh đạo tỉnh có gương mặt hiền hoà, nụ
cười phúc hậu, luôn đi sâu, đi sát nhân dân, nhất là những người dân miệt mài
lao động trên công trường xây dựng công trình thuỷ lợi lớn nhất nước này – một
công trình làm thay đổi toàn diện vùng nông thôn nghèo khó của một tỉnh biên
giới từng trải qua tất cả các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc trong thế kỷ 20. Đó là đồng chí Đặng Văn Thượng, chú Sáu Thượng thân kính
của lớp trẻ Tây Ninh thời “ta đi xây dựng công trình”. Có thể nói, không thể có
một Tây Ninh đổi đời nếu không có công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng, và cũng không
thể có một công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng nếu không có chú Sáu Thượng. Những ai
biết rõ hoàn cảnh lịch sử của tỉnh nhà giai đoạn ấy đều khẳng định được điều đó.
NGƯỜI MANG CỜ “QUYẾT CHIẾN, QUYẾT THẮNG” VỀ NAM
Đồng chí Đặng
Văn Thượng, tên khai sinh là Đặng Văn Khương, SN 1927, ở Đức Hoà, Long An. Ở
tuổi thiếu niên ông đã phải chứng kiến những người thân trong gia đình mình bị
giặc Pháp xử tử vì đã dám tham gia cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, vì thế ông tham gia
cách mạng rất sớm, năm 1944 khi mới 17 tuổi.
Trong kháng
chiến chống Pháp ông cầm súng chiến đấu ở mặt trận Đức Hoà - Chợ Lớn, rồi tập
kết ra Bắc sau Hiệp định Genève 1954. Khi kẻ thù Mỹ Diệm xé bỏ Hiệp định không
tiến hành hiệp thương thống nhất đất nước, cuối năm 1959 đầu năm 1960 khi đang
công tác ở Sư đoàn B38, đơn vị của bộ đội miền Nam tập kết, ông được Quân uỷ
Trung ương gọi về Hà Nội giao nhiệm vụ đặc biệt: tham gia đoàn cán bộ đầu tiên
từ miền Bắc “hồi kết” về Nam kháng chiến chống Mỹ.
Đoàn do đồng
chí Bùi Thanh Vân (Út Liêm, sau là Tỉnh đội trưởng Tây Ninh, rồi Trung tướng Tư
lệnh Quân khu 7) làm trưởng đoàn, đồng chí Đặng Văn Thượng làm Chính trị viên,
Bí thư chi bộ. Từ thủ đô Hà Nội đoàn đi ô tô vào đến bờ sông Bến Hải rồi bí mật
vượt sông, đi bộ dọc Trường Sơn ròng rã đến 10 tháng trời (từ ngày 1.1 đến tháng
10.1960) mới tới căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở chiến khu D, huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai.
Trước lúc lên
đường, ông Sáu Thượng và 27 đồng chí trong đoàn vinh dự được gặp và dùng cơm với
Bác Hồ và Bộ Chính trị. Bác Hồ giao nhiệm vụ cho đoàn và Đại tướng Võ Nguyên
Giáp trao lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” cho Bí thư chi bộ Đặng Văn Thượng.
Nhiệm vụ đặc biệt của đoàn công tác này, khác với những đơn vị “hồi kết” về sau
là không chỉ mang theo lương thực để ăn đường và vũ khí– những “cây súng cái”
của bộ đội về Nam, mà còn mang một khối lượng vàng không nhỏ, để “làm vốn ban
đầu” cho miền Nam đánh Mỹ.
Chuyến đi lịch
sử này, năm 1982 nhà văn Trương Nguyên Việt có viết trên tạp chí Văn nghệ quân
đội, đoạn nói về ông Sáu Thượng như sau: “… Riêng với anh Sáu, một hoàn cảnh
khắc nghiệt đến với anh. Đi được quãng một phần ba chặng đường, bổng anh thấy
nhói bên ngực phải. Cứ nghĩ do quai ba lô siết. Nhưng nới quai ra rồi vẫn thấy
đau. Càng đi càng đau. Cho tới lúc anh ói, ói ra máu đỏ nọc. Đồng đội nhìn anh
ói mà nước mắt lưng tròng. Cái mảnh đạn tai quái trong buồng phổi của anh đó
(anh bị thương từ thời kháng Pháp), rình lúc căng thẳng, mệt mỏi, mới lại trỗi
dậy hành hạ anh.
Trước tình
hình sức khoẻ anh như vậy, chi bộ họp và quyết định phải đưa anh trở lại miền
Bắc. Nhưng với quyền Bí thư, anh gắng thuyết phục mọi người cho mình đi tiếp. Có
lẽ do quá thông cảm và nể tình, cho nên mọi cánh tay lại giơ lên phủ quyết lại
quyết định trước đó của mình…”.
Đoàn về đến
căn cứ, trình diện Trung ương Cục, ông Sáu Thượng, ông Út Liêm và một đồng chí
nữa lập tức đi miền Tây, đến các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre “chiêu binh
mãi mã” được hơn 500 quân để thành lập tiểu đoàn quân chủ lực đầu tiên của cách
mạng miền Nam thời đánh Mỹ cho kịp ngày ra mắt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam ở chiến khu Dương Minh Châu - Tây Ninh ngày 20.12.1960.
Trên đường
chuyển quân về Tây Ninh, ông Út Liêm, ông Sáu Thượng chỉ huy đơn vị phục kích
đoàn xe của tên Quận Huê từ dinh quận Phú Khương ở Suối Đá đi ra thị xã Tây
Ninh, 30 tên giặc đi trên xe GMC và xe Jeep tử thương trong trận này, trong đó
có tên Quận trưởng khét tiếng ác ôn ở Tây Ninh.
Từ đó, đơn vị
Q761 lớn mạnh lên thành Trung đoàn, đánh thắng trận Bình Giã nổi tiếng nên được
Trung ương Cục đặt tên là Trung đoàn Bình Giã. Trung ương Cục lại thành lập thêm
đơn vị Q762, đơn vị đánh thắng trận Đồng Xoài, nên được đặt tên là Trung đoàn
Đồng Xoài. Lúc này ông Sáu Thượng là Chính uỷ Trung đoàn Đồng Xoài.
Sau đó hai
trung đoàn này cùng với một trung đoàn từ miền Tây điều lên tập hợp lại thành
lập “Công trường 9”, Sư đoàn quân chủ lực đầu tiên của cách mạng miền Nam. Ông
Sáu Thượng lãnh nhiệm vụ Chính uỷ Sư đoàn. Cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân
giải phóng lớn mạnh không ngừng. Trường Quân chính sơ trung cấp được thành lập,
sau là Trường Sĩ quan Lục quân 2, đóng ở rừng Lò Gò - Tây Ninh, Đại tá Đặng Văn
Thượng được điều động về làm Chính uỷ nhà trường.
XÂY HỒ DẦU TIẾNG, TRỊ THUỶ ĐỒNG THÁP MƯỜI
Miền Nam giải
phóng chưa được bao lâu, bọn diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Sary bắt đầu gây hấn,
chúng tràn qua biên giới phía Tây Nam giết hại đồng bào ta. Đồng chí Đặng Văn
Thượng chính thức đến với quân dân Tây Ninh với cương vị Chính uỷ Bộ CHQS tỉnh.
Rồi được Trung ương giao giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh, thay đồng chí Nguyễn Văn
Nới (Hai Thắng) đi học dài hạn ở Hà Nội vào giữa năm 1976. Tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh Tây Ninh lần thứ III, đồng chí Đặng Văn Thượng được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Từ một người
chỉ huy quân sự chuyển sang làm người đứng đầu chính quyền, Đảng bộ tỉnh, chú
Sáu Thượng đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn của một thời Tây Ninh vừa
khôi phục sản xuất ổn định cuộc sống với xuất phát điểm của nền kinh tế rất
thấp, vừa phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại biên giới của giặc Pôn Pốt.
Thời bấy giờ dân trong tỉnh không đủ gạo ăn, đích thân chú Sáu Thượng cùng với
ông Hai Phát, Phó Chủ tịch UBND tỉnh và ông Hồng Phúc, Giám đốc Sở Lương thực
phải lặn lội xuống một tỉnh gần tới phần đất cực Nam đất nước để xin đổi gỗ rừng
(do Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu- Cố vấn của Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn
trồng) để lấy lương thực nhưng không được.
Vậy mà lại có
lãnh đạo của 3 tỉnh khác tặng không cho Tây Ninh 2.000 tấn lúa và một máy phát
điện 300 KVA (lúc bấy giờ nguồn điện ở tỉnh Tây Ninh có cũng như không). Và
2.000 tấn lương thực ấy tỉnh vẫn không dám dùng hết, còn phải đem 1.000 tấn đổi
lấy phân đạm, phân lân của TP.Hồ Chí Minh về phân phối cho nông dân sản xuất vụ
Đông Xuân ở ba xã cánh Tây Trảng Bàng, nơi duy nhất trong tỉnh sản xuất được vụ
lúa này.
May mắn làm
sao, 2 năm sau ngày giải phóng, nước ta được Ngân hàng Thế giới (WB) viện trợ để
xây dựng công trình thuỷ nông hồ Dầu Tiếng, một dự án có từ trước ngày giải
phóng. Tuy mang tên của một địa phương thuộc tỉnh Sông Bé (nay là Bình Dương)
nhưng gần như hai phần ba diện tích hồ chứa 27.000 ha và toàn bộ hệ thống kênh
mương hàng ngàn kilomet đều nằm trên đất Tây Ninh.
Được Trung
ương cho triển khai thi công trên địa bàn tỉnh, Tây Ninh có trách nhiệm tổ chức
thi công trên “đại công trường thủ công” xây dựng hệ thống kênh nhánh và công
trình trên kênh, Bộ Thuỷ lợi đảm trách thi công phần đầu mối gồm đập chính, đập
tràn, đập phụ và 2 kênh chính Đông, Tây bằng cơ giới.
Khu vực thi
công của địa phương trải rộng trên 2/3 diện tích của tỉnh, trừ hai huyện Tân
Biên và Bến Cầu, còn các huyện, thị khác đều có kênh mương đi qua. Về khối lượng
thì Tây Ninh phải đào đắp hàng chục triệu mét khối đất và hàng chục ngàn mét
khối bê-tông, đá xây lát. Và công việc ấy phải làm xong trong vòng 5 năm cho kịp
đưa vào sử dụng, dẫn nước về đồng phục vụ sản xuất khi các công trình đầu mối
hoàn thành, dòng sông Sài Gòn bị chặn lại và hồ Dầu Tiếng được tích nước.
Trước cơ hội
có thể làm thay da đổi thịt quê hương, phát triển sản xuất nông nghiệp, chú Sáu
Thượng quyết tâm làm cho bằng được, dù rằng trong tỉnh có những ý kiến phản đối
khá mạnh.
Với cái tâm trong sáng và ý chí quyết thắng của “người lính Cụ Hồ”, vị
Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh lúc bấy giờ đã thực sự là vị Tổng chỉ huy trên công
trường, với những đợt phát động toàn tỉnh ra quân rầm rập, sôi nổi trên tất cả
các công trường từ tỉnh đến xã. Khởi công ngày 29.4.1981, đến mùa khô năm 1985
dòng nước mát lành từ hồ Dầu Tiếng tuôn chảy đến tận các cánh đồng vốn khát khao
cháy bỏng từ bao đời nay.
Hệ thống thuỷ lợi Dầu Tiếng đã phát huy tác dụng, hiệu
ích như thế nào, người Tây Ninh ngày nay hẳn đã quá rõ. Trong cuộc đổi thay đem
lại nguồn hạnh phúc lớn lao cho người dân nông thôn Tây Ninh, mãi mãi vẫn còn in
đậm dấu ấn của ông Sáu Thượng.
Với sự cống
hiến không mệt mỏi của người cán bộ trung kiên của Đảng, không chỉ có người dân
Tây Ninh yêu mến, mà nhiều tỉnh ở miền Tây Nam bộ, cụ thể là ở vùng Đồng Tháp
Mười, vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Bắc Hà Tiên được vươn lên sung túc như ngày
hôm nay có phần công sức không nhỏ của ông Sáu Thượng.
Rời đất Tây
Ninh, năm 1987 đồng chí Đặng Văn Thượng được Chính phủ (khi ấy là Hội đồng Bộ
trưởng) phân công làm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Đồng Tháp Mười.
Đồng Tháp Mười
là một vùng đất hoang hoá lâu đời, diện tích tự nhiên khoảng 700.000 ha thuộc
địa giới hành chính của 15 huyện, 1 thị xã và 9 xã của các tỉnh Long An, Tiền
Giang và Đồng Tháp. Sau giải phóng, Đồng Tháp Mười vẫn còn hơn phân nửa diện
tích hoang hoá (53% diện tích tự nhiên), đất đai bị phèn nặng, mùa lũ nước ngập
sâu và kéo dài, mùa khô thì thiếu nước ngọt, dân cư thưa thớt chỉ sống dựa vào
một vụ lúa mùa và là lúa nổi.
Với kết quả
nghiên cứu, đề xuất của Ban Chỉ đạo, được sự đầu tư mạnh mẽ của Chính phủ về các
lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, điều động và bố trí dân cư và quyết tâm đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh trong vùng Đồng Tháp Mười, sau 10 năm
thực hiện chương trình đầu tư phát triển Đồng Tháp Mười đã biến đổi sâu sắc, từ
một vùng có điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt đã trở thành vùng lúa trọng
điểm của đất nước với diện tích gieo trồng lúa tăng thêm 312.743 ha, sản lượng
lúa tăng thêm gần 1,65 triệu tấn, góp phần đưa đất nước từ chỗ thiếu thốn lương
thực trước năm 1987 trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Bên cạnh việc
đầu tư phát triển vùng Đồng Tháp Mười, Ban Chỉ đạo Đồng Tháp Mười còn chỉ đạo và
tổ chức thực hiện chương trình “trị thuỷ” vùng Tứ giác Long Xuyên, thoát lũ ra
biển Tây ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang đem lại hiệu quả phát triển rất mạnh mẽ
cho vùng đất Tây sông Hậu. Với sự cống hiến công sức ở miền Tây Nam bộ, trong
hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chương trình phát triển Đồng Tháp Mười
1987-1997, ông Sáu Thượng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng
Nhất.
Cống hiến trọn
một đời, mãi đến năm 1999 đồng chí Đặng Văn Thượng mới thật sự nghỉ hưu. Và bây
giờ chú Sáu Thượng đã từ biệt chúng ta. Nhưng bao giờ người Tây Ninh còn được
hưởng lợi từ hồ Dầu Tiếng, hay người dân miền Tây còn được hưởng lợi từ Đồng
Tháp Mười, từ vùng Tứ giác Long Xuyên, thì mọi người vẫn còn nhớ đến ông.
NGUYỄN TẤN HÙNG