Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Đại hội Đảng
Nguyễn Văn Linh, nhà lãnh đạo, người cán bộ dân vận tiêu biểu của Đảng
Thứ hai: 10:33 ngày 24/03/2025

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTN) - Ông Nguyễn Văn Linh chỉ đảm nhiệm cương vị Trưởng Ban Dân vận Mặt trận Trung ương trong khoảng thời gian không dài, chỉ trong 3 năm từ năm 1978 đến 1980 nhưng ông Nguyễn Văn Linh là người để lại dấu ấn sâu đậm đối với công tác dân vận của Đảng.

Trong bài viết ngày 28.4.1998 để tiễn biệt ông Nguyễn Văn Linh với tựa đề “Vĩnh biệt anh Mười Cúc”, nhà cách mạng lão thành Trần Bạch Đằng - người bạn chiến đấu thân thiết trong “bộ tứ” Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng - đã viết: “Tôi nhớ, năm trước, anh Nguyễn Văn Linh đến huyện Tánh Linh dự lễ kỷ niệm chiến thắng Bắc Ruộng thời Diệm, đồng bào các dân tộc đốt đuốc đón anh (1)”, để rồi ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Vài hình ảnh để nói lên rằng: anh Nguyễn Văn Linh có quyền thanh thản. Không phải cán bộ lãnh đạo nào cũng được hạnh phúc như anh… (2)”.

Chỉ một chi tiết nhỏ, nhưng hoàn toàn không nhỏ này, để thấy tầm vóc Nguyễn Văn Linh, thấy tấm lòng của nhân dân, những người lao động chân chất, đối với một nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, của đất nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh về thăm và nói chuyện với bà con nông dân HTX Tùng Phong, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Nghệ Tĩnh (từ 23 đến 27.5.1990), nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Là người lăn lộn trong các phong trào cách mạng ở những nơi gian khổ nhất, khó khăn nhất, hoà mình trong đời sống lao khổ của nhân dân, cả cuộc đời cách mạng của Nguyễn Văn Linh là cuộc đời của một cán bộ dân vận mẫu mực, luôn có quan điểm quần chúng xuyên suốt.

Ông Nguyễn Văn Linh chỉ đảm nhiệm cương vị Trưởng Ban Dân vận Mặt trận Trung ương trong khoảng thời gian không dài, chỉ trong 3 năm từ năm 1978 đến 1980 nhưng ông Nguyễn Văn Linh là người để lại dấu ấn sâu đậm đối với công tác dân vận của Đảng. Ở Nguyễn Văn Linh, cả cuộc đời ông là cuộc đời cách mạng gắn liền với công tác dân vận.

Trong thời gian từ năm 1955 tới 1960, Nguyễn Văn Linh là Bí thư Đặc khu uỷ Sài Gòn - Gia Định. Những năm 1957 đến 1960, ông là quyền Bí thư Xứ uỷ Nam bộ. Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn này, ông là lãnh đạo cao nhất của Đảng và cũng là người chịu trách nhiệm cao nhất về phong trào cách mạng của miền Nam, của Sài Gòn - Gia Định. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của cách mạng miền Nam khi mà kẻ thù thực hiện chiến dịch “Tố cộng”, “Diệt cộng.

Những tổn thất của cách mạng miền Nam trong giai đoạn này là vô cùng to lớn. Thế nhưng, sau đó, với Nghị quyết 15 của Đảng, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế bị động sang chủ động, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực của kẻ thù.

Và, đây cũng chính là đánh giá và kết luận tình hình vô cùng sắc bén, chính xác của ban lãnh đạo lúc bấy giờ mà đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, Lê Duẩn. Về phong trào cách mạng miền Nam, trước khi quyết định báo cáo Trung ương về việc ra Nghị quyết 15, ông Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Phải dùng bạo lực vũ trang tự vệ, chống bạo lực phản cách mạng của địch, đó là yêu cầu bức bách, hợp tình, hợp lý của quần chúng (3)”. Đây có thể nói là Nghị quyết quan trọng nhất đã làm thay đổi phong trào cách mạng ở miền Nam, đưa đến ngày toàn thắng đất nước, thống nhất Tổ quốc vào năm 1975.

Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ là “cái nôi” của các phong trào yêu nước, ủng hộ cách mạng của các tầng lớp nhân dân nội thành. Những bà mẹ Bàn Cờ; những văn nghệ sĩ, trí thức; những chức sắc tôn giáo tiêu biểu ở miền Nam đã tham gia nhiệt tình các phong trào ủng hộ cách mạng.

Có lẽ sẽ khó tìm thấy ở đâu có những câu chuyện kỳ lạ như ở miền Nam Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ: con là quyền Thủ tướng của Việt Nam Cộng hoà (Nguyễn Xuân Oánh) mà cha (Nguyễn Xuân Bái) luôn dẫn đầu các đoàn biểu tình ủng hộ cách mạng; con rể là Ngoại trưởng, Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà (Trần Văn Đỗ), nhưng cha vợ (cụ Lưu Văn Lang) lại thường dẫn đầu các đoàn biểu tình ủng hộ cách mạng và còn bị bắt, bị giam, v.v…

Nhắc lại một vài câu chuyện nhỏ này để thấy rằng vai trò của những người lãnh đạo cao nhất của Đảng ở miền Nam, ở Sài Gòn - Gia Định khi ấy, mà ông Nguyễn Văn Linh, là người chịu trách nhiệm chính. Nếu không có quan điểm quần chúng mẫu mực, không gắn bó mật thiết với nhân dân, không tôn trọng nhân dân sẽ không nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của nhân dân.

Đại hội VI của Đảng là Đại hội của đổi mới đất nước và người có công đầu trong cuộc “lột xác” lịch sử này không ai khác là ông Trường Chinh - khi ấy là Tổng Bí thư của Đảng. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận chỉ được tổng kết từ thực tiễn sinh động, từ hơi thở của cuộc sống.

Và, Thành phố Hồ Chí Minh - nơi ông Nguyễn Văn Linh giữ cương vị Bí thư Thành uỷ khi ấy với những việc làm “xé rào”, “sáng tạo” nhưng thành công đã cung cấp cho Trung ương bài học quý giá để Đảng quyết định và quyết tâm đổi mới đất nước.

Một chân lý không thể không khẳng định: rằng chính những phong trào, những sáng kiến vĩ đại của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã khơi nguồn sáng tạo và đưa tới quyết định dũng cảm của Đảng lúc bấy giờ - Đổi mới đất nước.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, với cương vị là Tổng Bí thư, là người chịu trách nhiệm cùng Trung ương Đảng tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, ông Nguyễn Văn Linh đã trăn trở tìm mọi giải pháp để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Mặc dù quan điểm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân là chủ trương xuyên suốt của Đảng ta trong suốt chặng đường lịch sử của Đảng và ngay trong chương trình tóm tắt của Đảng thông qua tại Hội nghị hợp nhất 2.1930 đã ghi rõ: “1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng. 2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân… (4)”.

Sau đó, trong tất cả các văn kiện của Đảng, Đảng ta đều đặc biệt chú trọng nội dung này. Song phải khẳng định rằng, chỉ từ sau Đại hội VI của Đảng, vấn đề dân vận lại được quan tâm và chú trọng. Đại hội VI - Đại hội lịch sử của đổi mới đất nước đã tổng kết thực tiễn 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN (1976-1986), tổng kết hoạt động của Đảng nhiệm kỳ khoá V.

Điều đặc biệt nhất là Đại hội đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm sâu sắc, trong đó, bài học đầu tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng: “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”.

Đại hội khẳng định: “Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng là người làm nên lịch sử”. Đại hội cho rằng: “Bài học lớn rút ra từ những năm qua là trong điều kiện Đảng cầm quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu.

Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng” (5).

Một dấu mốc lịch sử quan trọng, ngày 20.3.1990, dưới sự chủ trì của ông Nguyễn Văn Linh, Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương đã họp và sau đó ban hành Nghị quyết “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”.

Nghị quyết đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới. Có thể nói, đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên về công tác dân vận. Người chủ trì, khởi thảo và quyết định chính là Nguyễn Văn Linh.

Sau đó, khi phát biểu về việc cần thiết phải ra Nghị quyết này, ông nói: “Đáng lẽ ra Nghị quyết về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” đã được ra sớm hơn một, hai năm.

Nhưng sau Đại hội VI, những vấn đề về kinh tế, xã hội quá bức bách, nên Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư phải tập trung sức để xác định nội dung bước đi và biện pháp đổi mới (…). Những năm 1987 - 1988 cứ loay hoay xung quanh các vấn đề kinh tế - xã hội và phải tập trung sức chỉ đạo thực hiện những nghị quyết đó.

Vì thế không có thì giờ đi sâu vào công tác quần chúng (…) để hết nhiệm kỳ Đại hội VI này Trung ương không có nghị quyết về công tác quần chúng của Đảng thì khuyết điểm còn to hơn nhiều (…) bên chính quyền, tôi cũng được biết nhiều cán bộ, nhiều cấp và ngành từ Trung ương đến cơ sở không quan tâm và coi thường công tác quần chúng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng cần phải sửa chữa ngay (6)”.

Từ đó đến hết nhiệm kỳ Tổng Bí thư (6.1991), ông Nguyễn Văn Linh luôn quan tâm, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết quan trọng này. Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết một năm công tác thực hiện Nghị quyết (4.1991), ông đã phát biểu đầy tâm huyết: “Vấn đề cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân”, đây không phải là vấn đề mới vì Bác Hồ đã nêu lên trong thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, nhưng hiện nay phải nhấn mạnh vấn đề này vì: “Từ khi Đảng lãnh đạo chính quyền cả nước thì có những đồng chí quên chân lý này, nhiều khi còn làm ngược lại.

Đó là những cán bộ đảng viên xa dân, làm “quan cách mạng” hống hách với dân, cửa quyền, tham ô, hối lộ và mắc nhiều bệnh tiêu cực. Các loại bệnh này đang có chiều hướng phát triển mà không phải chỉ ở cấp cơ sở mà “lây sang” cấp quận, huyện, tỉnh, thành phố và cả Trung ương. Nó lan vào cả những cơ quan giám sát và thực thi pháp luật như  Thanh tra, Toà án, Công an…”.

Chân lý “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân” sau đó đã trở thành một trong 5 bài học mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) thông qua.

Ông Nguyễn Văn Linh cũng chính là người đã đề xuất và chỉ đạo thành lập Ban Dân vận cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện và qui định phụ trách dân vận của Đảng ở cấp Trung ương là Uỷ viên Bộ Chính trị và ở cấp dưới là Thường vụ cấp uỷ.

Là người khởi nguồn và trực tiếp viết những bài báo “nảy lửa” về “Những việc cần làm ngay”, Nguyễn Văn Linh đã “nổ” những “phát súng” trực diện vào trận chiến đầy cam go, quyết liệt - trận chiến chống thói thờ ơ, quan liêu, tham nhũng.

Tất cả những bài báo được viết dưới ngòi “bút lửa” này đã mang lại hiệu ứng xã hội sâu rộng, mang đến một luồng sinh khí tin tưởng, phấn chấn trong nhân dân. Có thể nói rằng, đây là những bài viết vô cùng hợp lòng dân và đã được viết ra bởi một con người suốt đời gắn bó máu thịt với nhân dân; suốt đời chăm lo cho nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân; một con người, một nhà lãnh đạo hiểu dân, tin dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì hạnh phúc của nhân dân.

Kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng, nhắc tới ông Nguyễn Văn Linh không chỉ nhắc tới một nhà lãnh đạo tài năng, tâm huyết mà còn là một nhà lãnh đạo luôn gần dân với những quan điểm về dân vận tiến bộ vượt thời gian.

VŨ TRUNG KIÊN

(1) Trần Bạch Đằng  (2005), Kẻ sĩ Gia Định, Nxb. Quân đội nhân dân, tr. 375

(2) Sđd, tr. 375

(3) Dẫn theo Lê Quang Thành (2003), Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nhà lãnh đạo của Đảng có quan điểm quần chúng mẫu mực - Nguyễn Văn Linh, nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo (hồi kí), Nxb. Chính trị - Quốc gia

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, T.3, tr.4

(5) Đảng Cộng sản, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.29

(6) Nguyễn Văn Linh, Đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng; Tạp chí Dân vận số tháng 9 năm 2009

Tin cùng chuyên mục