|
Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên vệ đường |
- Phạm Ngũ Lão
(1255-1320), sinh năm Ất Mão: Ông là danh tướng thời Trần, quê ở làng Phù Ủng,
huyện Đường Hào (nay là huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Ông rất tài giỏi, văn võ
song toàn nên được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn gả con gái nuôi và tiến cử lên
vua Trần Thánh Tông.
Trong cuộc chiến tranh chống quân Mông-Nguyên xâm
lược lần thứ hai (năm 1285), do lập được nhiều chiến công, Phạm Ngũ lão được
phong làm Hạ phẩm Phụng Ngự.
Trong cuộc chiến tranh chống quân Mông-Nguyên xâm
lược lần thứ ba (năm 1288), Phạm Ngũ Lão lại lập nhiều chiến công hiển hách và
từ đây đường công danh của ông ngày một mở rộng.
Năm 1290, dưới triều Trần Nhân Tông, ông được giao
chức quản lĩnh quân Thánh Dực của triều đình.
Phạm Ngũ Lão là vị tướng luôn có mặt ở những trận
quyết chiến quan trọng và luôn tự mình xông lên giết giặc làm gương cho ba quân
tướng sĩ. Cuộc đời ông gắn liền với chiến trận và những chiến công vang dội.
- Trần Nhật Duật
(1255-1330), sinh năm Ất Mão: Ông là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông. Ông
được phong tước Chiêu Văn Vương năm 12 tuổi, một trong những tước vương trẻ nhất
của vương triều Trần.
Chính sử chép kỹ biệt tài quân sự của ông trong
chiến thắng Hàm Tử Quan (tháng 5.1285) nhưng trên thực tế tài cầm quân của ông
đã sớm được thể hiện từ trước đó, đặc biệt là tư duy quân sự mang tính chiến
lược sâu sắc, phi thường, phục vụ hết sức có hiệu quả trong các lần chiến thắng
quân Nguyên-Mông.
- Trần Quốc Toản (1267-1285),
sinh năm Đinh Mão: Sinh ở xã Trang Liệt (nay là phường Trang Liệt, thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Trần Quốc Toản là người anh hùng trẻ tuổi chống quân
Nguyên-Mông, nổi tiếng với giai thoại bóp nát quả cam vì phẫn chí ở Hội nghị
Bình Than.
Sau đó, ông về lập đội quân gồm hơn 1.000 người đi
đánh giặc Nguyên-Mông dưới lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân” (phá giặc mạnh,
báo ơn vua). Ông tử trận được tặng tước Hoài Văn Hầu.
- Trịnh Khả (1399-1451), sinh năm
Kỷ Mão: Ông là danh tướng đời Lê Thái Tổ, quê ở xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh,
(nay là xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Ông có công lớn trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên-Mông. Ông được vua Lê Thái Tổ cho mang họ vua nên
gọi là Lê Khả. Ông lập được nhiều chiến công đánh quân xâm lược, nổi tiếng trong
các trận Trà Lân, Kha Lưu, giải phóng vùng Tam Giang, đánh tan viện binh của Mộc
Thạch ở đèo Lê Hoa năm 1427.
Sau kháng chiến thành công, năm 1427, ông được
phong Kim tử vinh lộc đại phu, Vệ tướng quân, Kỵ đô úy và giữ nhiều trọng trách
quan trọng những năm về sau.
- Mạc Đăng Dung (1483-1541), sinh
năm Quý Mão: Ông quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy),
thành phố Hải Phòng, nổi tiếng là đô vật, làm quan lên đến chức Đô chỉ huy sứ
rồi Thái phó và thái sư An Hưng Vương. Sau đó, Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê, lập
ra nhà Mạc từ năm 1527.
- Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719),
sinh năm Tân Mão: Ông là người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc (nay
là xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên năm 1683, làm
quan đến Thượng thư bộ lại. Ông có hai tác phẩm nổi tiếng “Tang thương ngẫu
lục” và “Nguyễn trạng nguyên phụng sứ tập."
- Nguyễn Thiếp (1723-1804), sinh
năm Quý Mão: Ông là người làng Mật Thôn, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay là
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Là ẩn sĩ trên núi Bùi Phong, ông được vua Quang
Trung mời ra chỉ đạo việc học trong nước. Ông làm Viện trưởng viện Sùng chính,
chuyên biên dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm. Tác phẩm chính của ông là bộ
“Hạnh Am thi cảo.”
- Võ Duy Thanh (1807-1861), sinh
năm Đinh Mão: Quê ông ở làng Kim Bồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông đỗ
Bảng nhãn triều Nguyễn, nổi tiếng về học vấn và chính trị. Tác phẩm văn học của
ông là “Trừng Phủ thi tập."
- Vũ Phạm Khải (1807-1872), sinh
năm Đinh Mão: Ông quê ở làng Thiên Trì (nay là thôn Thượng Trì), xã Yên Mạc,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Ông là danh sỹ, nhà sử học nổi tiếng triều Nguyễn.
Thơ văn của ông gồm các tác phẩm "Ngu Sơn toàn tập," "Phượng Trì Đông Dương
tiên sinh văn tập," "Vũ Đông Dương văn tập," "Lịch đại chúng hình thông khảo."
Người đương thời đánh giá ông “Vũ Phạm Khải là người bạn đáng kính, mắt cao
vượt một thời, tâm hùng hơn muôn kẻ.
- Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), sinh
năm Đinh Mão: Ông quê ở làng Long Tuyền, (nay thuộc quận Bình Thủy, thành phố
Cần Thơ) là nhà thơ, tác giả bản tuồng "Kiêu Thạch kỳ duyên" nổi tiếng.
Ông là nhà yêu nước kháng Pháp.
- Nguyễn Phúc Miên Thẩm
(1819-1870), sinh năm Kỷ Mão: Ông là con thứ 10 của vua Minh Mạng nên tục gọi là
ông Hoàng Mười. Ông nổi tiếng văn chương, được phong tước Tùng Thiện Công. Ông
cùng với em là Tuy Lý Vương Miên Trinh lập nên “Tùng Vân thi xã” quy tụ các văn
sĩ nổi tiếng. Các tác phẩm nổi tiếng là "Thương Sơn thi tập," "Nam cầm phổ"...
- Ông Ích Khiêm (1831-1884), sinh
năm Tân Mão: Ông quê ở làng Phong Lệ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Ông đỗ
cử nhân khi mới 16 tuổi. Sau này, ông giỏi cầm binh, tiêu diệt giặc phỉ được
phong tước “Kiêu Dũng nam." Vì cương trực, ông bị các quyền thần bức tử ở Bình
Định.
- Phan Bội Châu (1867-1940), sinh
năm Đinh Mão: Ông ở làng Đan Nhiễm, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Ông là chí sĩ yêu nước, lập hội Duy Tân để học việc cách tân đất nước, lãnh đạo
phong trào Đông Du ở Nhật, thành lập Việt Nam quang phục hội ở Trung Quốc.
Tháng 6.1925, ông bị thực dân Pháp bắt ở Thượng
Hải, giải về nước và bị xử án chung thân. Trước phong trào đấu tranh của nhân
dân cả nước đòi thả Phan Bội Châu, ông được đưa về an trí tại Huế.
Ông để lại nhiều tác phẩm yêu nước như "Thuốc
chữa dân nghèo," "Cao đẳng quốc dân," "Luân lý vấn đáp," "Nhân sinh triết học,"
"Phan Bội Châu niên biểu."
- Nguyễn Công Hoan (1903-1977),
sinh năm Quý Mão: Ông sinh ở làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông
là nhà văn hiện thực xuất sắc, nổi tiếng về truyện ngắn, tiểu thuyết như
"Kép Tư Bền," "Tắt lửa lòng," "Lá ngọc cành vàng," "Bước đường cùng."
Ông có nhiều đóng góp cho nền văn nghệ
cách mạng. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội nhà văn Việt Nam.
-
|
Tướng Hoàng Văn Thái |
Hoàng Văn Thái (1915-1986),
sinh năm Ất Mão: Ông là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, quê ở xã Tây An,
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông đảm nhiệm
nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội như Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân
dân Việt Nam; Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu V, Bí thư Khu uỷ Khu V, Tư lệnh
Quân giải phóng miền Nam, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam.
Ông là Uỷ viên Trung ương Đảng khoá III, IV, V và
là đại biểu Quốc hội khoá VII. Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân
chương cao quý. Tên ông được đặt cho nhiều được phố, trường học.
K.D (st)