Văn hóa - Giải trí   Đất nước mến yêu

BAOTAYNINH.VN trên Google News

Núi Mò O, bức bình phong của thành Hoàng đế

Cập nhật ngày: 23/07/2012 - 12:40

Hình dung tỉnh Bình Định xưa (Phủ Hoài Nhân) qua lời tả của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí: "Núi sông có nhiều thắng cảnh” thì sông núi An Nhơn chính là những chứng nhân đầy thuyết phục cho nhận định đó. Nếu như Nguyễn Hoàng từng dặn con: "Đất Thuận Quảng phía Bắc có đèo Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng” thì thật là cái nhìn chiến lược về hình sông, thế núi của Đàng Trong ngày ấy. 

Hành hương về thành Đồ Bàn (còn gọi là Vijaya) kinh đô của vương quốc Chăm-pa xưa, những bất ngờ kỳ thú luôn hiện ra bù đắp cho khách lữ hành sau chặng đường nhẫn nại với nắng, mưa, gió bụi. Trong khoảnh khắc lắng đọng giữa muôn trùng, tôi cơ hồ nghe văng vẳng cuộc đối thoại giữa núi sông, thành quách, đền tháp với dòng thời gian dâu bể. Dọc những xóm làng, thị tứ, đồng mía, rừng xoài, những cỗ xe ngựa gập ghềnh từ rạng đông cho tới hoàng hôn gây cho tâm trí chút cảm giác bồng bềnh cùng quá vãng. Một quá vãng được hợp thành giữa các mặt đối lập: vĩnh hằng và phù vân, thánh thần mà yêu quỷ, ngai vàng và bùn đất, thống lĩnh và nô bộc, sinh thành và huỷ diệt... 

Huyền tích kinh đô xưa

Núi Mò O đột ngột hiện ra giữa cánh đồng, lặng lẽ nhưng không đơn độc. Núi cách biệt với một quần thể núi, sự cách biệt an nhiên của cuộc hoà hợp. Hoà hợp nhưng không dễ dãi, trang nghiêm nhưng không xa lạ. Có người bảo rằng, gốc tên núi là Maha, núi thiêng, một cái tên có nguồn cội từ đất Phật. Đại Nam nhất thống chí gọi là núi Mộ Ổ: "Núi Mộ Ổ ở phía Đông huyện, đỉnh núi có hai mũi nhọn như hình cái giá bút, phía Đông có núi Tương Bì, phía Đông Nam có núi Tiểu Đại (có tên nữa là Cô Sơn), phía Đông Bắc có thành Tây Sơn dài ước 3, 4 trượng, trong thành có hồ rộng hơn hai trượng, trong hồ có cột đá nhô đầu ra ngoài mặt nước chừng một thước, tương truyền do người Chiêm Thành dựng phía Nam có gò đất, lại có sông Cảnh Hãn, phía Tây Nam có hai cây tháp là tháp Con Gái và tháp Học Trò, nay đều đổ nát”.

Núi Mò O là một trong những thắng cảnh An Nhơn. Ngắm núi Mò O bằng ô tô, ngoài cách đi trên Quốc lộ 1A nhìn từ Bắc vào hoặc Nam ra, có thể nhìn cận cảnh qua con đường từ Đập Đá xuống Nhơn Phong hoặc đường từ sân bay Phù Cát qua Gò Găng xuống Khu kinh tế Nhơn Hội. Hay xa hơn, con đường từ phường Bình Định xuống Gò Bồi, rẽ trái qua Nhơn Hạnh. Có thể dành thời gian leo núi và thăm các ngôi chùa cổ. Từ hướng Bắc nhìn vào, núi có cái thế cuồng nộ của người muốn giẫm đạp phong ba để tìm đến nơi mình cần đến. Nhìn từ hướng Đông lên, sự nhẫn nại trong bể khổ hằn rõ trên trán núi. Nhìn từ hướng Tây xuống tất cả dường như tựa vào đất trời một nụ cười điềm nhiên, khoan dung hỉ xả.

Núi Mò O buổi bình minh

Chính trong một buổi sáng, tôi đã tìm thấy trong rất nhiều mưa gió, vẻ bao la minh triết của ngọn núi đầy sẻ chia với cõi người này. Truyền thuyết xưa cho biết, những mỏm đá của nó giương ra hứng gió bấc của hàng ngàn năm để biến thành kim cương. Câu chuyện đẫm vị căn cốt chân tu này lồng trong một chuyện rất thế nhân: đây là cuối cùng của long mạch, tiềm ẩn và phát tích đất đế vương. Núi sống với người, núi tạo cho người khí thiêng, người tạo thêm huyền tích cho núi. Và núi sống với quần thể núi, đó là gò Long Cốt án ngữ mặt bắc thành Đồ Bàn và Mò O là bình phong của kinh đô xưa.

Dân gian kể rằng có những cuộc Vàng và Đồng Đen đi ăn đêm. Vàng và Đồng Đen nhiều tuổi dưới các lốt con trâu, buồng cau, nải chuối..., các loài vật và cây trái quen thuộc mà người xưa đã đúc. Đôi khi trong đêm, có người bắt gặp chúng đang di chuyển qua các bờ rào, lùm cây xung quanh núi Mò O. Có người bảo rằng chỉ có ai hạp tuổi, dùng khăn quệt máu chó thì mới bắt được. Trâu Vàng hoặc trâu Đồng Đen đi ăn nhiều, ấy là những năm mất mùa đói kém. Về vàng và quỷ thần, chuyện này tiếp liền chuyện kia trong cư dân bản địa, miên man như cổ tích.

Một góc thành Đồ Bàn

Nghìn năm trước, khi mảnh đất này giang tay đón những vận hội kinh kỳ, núi Mò O trở thành sự che chở kỳ vĩ, một vùng đất thiêng trong tâm thức hoàng triều và thần dân. Hơn hai thế kỷ trước, một lần nữa núi Mò O làm thiên chức cao quý của xứ sở đế vương, nơi định đô của một triều đại nông dân rực rỡ trong lịch sử dân tộc: triều Tây Sơn. Và bây giờ, núi đứng đó trong sắc trời kinh xưa, uy nghi, trầm mặc. Núi nhã nhặn như một bậc chân tu, minh triết mà giản phác, nhẫn nại mà an nhiên. Nhà thơ Quách Tấn khi tìm hiểu núi sông để viết địa phương chí Bình Định đã nghiên cứu rất kỹ: "Hòn Mò O tiếp nhận đến hai sơn mạch. Một từ Kỳ Đồng xuống. Một từ Chà Rang chạy xuống đến đầu thôn Phú Thành (Phù Cát) qua các gò Tân Nghị, Bỉnh Đức, Nghĩa Hoà... thì nhập với mạch Kỳ Đồng vào Mò O, thành "Lưỡng Long nhập thủ” nghĩa là hai con rồng vào một chiếc đầu. Và hòn Mò O là "Đình Tức Long”, tức là "Con Rồng dừng lại để thở” rồi chạy xuống 7 hòn núi đất ở Chánh Mẫn (Phù Cát) cách chừng 3 cây số mới dừng lại”.

 Theo cách thức xây dựng kinh đô dựa vào triết lý phương Đông và điều kiện bản địa, bức bình phong Mò O hết sức hữu lý, hữu tình. Một trong những "nhân chứng sống” biểu trưng cho cái thế đại địa của An Nhơn, không chỉ dừng lại ở vai trò trong cuộc đất hai lần kinh kỳ mà cao hơn hết là sự trường tồn trong đời sống và sự ngưỡng mộ của nhân dân về sự chở che, về uy linh sơn mạch. Đó còn là sự chứng kiến bền bỉ "ngã tư đường của các văn hoá và các cư dân”, theo cách nói của Olov Janse (Thụy Điển), về sự bản địa hoá các văn hoá vùng Đông Nam Á, như công trình của GS. O.W. Wolter (Anh) đã đề cập.

 Trèo lên núi Mò O để nhìn bốn phương Nam Bắc Tây Đông, ta sẽ bắt gặp mô hình Thánh địa - Kinh đô - Cảng thị, tương ứng với thành Cha (An Thành), thành Đồ Bàn (sau này là thành Hoàng Đế) và thành Thị Nại (sau này trở thành quân cảng nhà Tây Sơn). Những biến thiên trong dòng thời gian đã để lại trên gương mặt đất đai sông núi một chiều sâu trầm lắng. Câu ca dao địa phương còn mãi trong tâm thức: "An Nhơn có núi Mò O - Có chùa Thập Tháp, có đò Trường Thi”.

Theo daidoanket