Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
Ngày 19.6, Quốc hội tiếp tục họp phiên toàn thể tại hội trường, thảo luận Dự án Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) và thông qua một số dự án Luật, nghị quyết
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều khiển phiên họp- Ảnh quochoi.vn |
* Biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc bổ nhiệm hai Thẩm phán TAND Tối cao
Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao về việc bổ nhiệm 2 Thẩm phán TAND Tối cao bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Hai nhân sự được bỏ phiếu là ông Lê Hồng Quang (sinh năm 1968)- uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tiền Giang và ông Nguyễn Văn Tiến (sinh năm 1966)- Thẩm phán cao cấp, Phó Chánh án TAND cấp cao tại Hà Nội.
Với 408/424 đại biểu Quốc hội tán thành (chiếm 83,10%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Chánh án TAND Tối cao về việc bổ nhiệm 2 Thẩm phán TAND tối cao đối với ông Lê Hồng Quang và ông Nguyễn Văn Tiến.
Sau đó, Quốc hội thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự án Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi).
Trong phiên thảo luận, đã có 26 đại biểu phát biểu và 2 đại biểu tranh luận. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường giải trình ý kiến của đại biểu nêu.
* Thảo luận dự án Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi)
Về tên gọi của Luật bảo vệ và phát triển rừng, đa số ý kiến đại biểu nhất trí lấy tên gọi khác của luật là Luật Lâm nghiệp, vừa bảo đảm tính thống nhất của ngành Lâm nghiệp, vừa mang tính tổng quát nhất, dễ hiểu nhất.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến giữ nguyên tên gọi Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Bởi lẽ, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã được triển khai rộng rãi trong thời gian dài, được người dân, chủ rừng biết đến và quen thuộc với tên gọi này, đặc biệt là đồng bào vùng cao, dân tộc thiểu số.
Về chính sách bảo vệ và phát triển rừng, đại biểu Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi) đề nghị rà soát và tập trung quy định các chính sách đối với bảo vệ và phát triển rừng vào trong một điều khoản và quy định các nội dung cụ thể là nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng rừng đầu tư lao động vốn công nghệ, áp dụng khoa học, công nghệ bảo vệ và phát triển rừng.
Có chính sách bảo vệ và phát triển rừng phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng.
Ưu tiên giao rừng cho người dân sinh sống tại chỗ. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho chủ rừng liên doanh, liên kết phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu, đào tạo, bảo vệ và phát triển rừng.
Đặc biệt, cùng với cơ chế hỗ trợ sau đầu tư và đầu tư, cần bổ sung quy định về cơ chế tài chính hỗ trợ cho chủ rừng, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi với thời gian thích hợp.
Đại biểu Mùa A Vảng (Điện Biên) cho rằng, dân là người trực tiếp bảo vệ rừng. Không một lực lượng nào bảo vệ rừng tốt hơn là sự tham gia của người dân, và chỉ khi nào họ thấy rừng đảm bảo cuộc sống của họ thì rừng sẽ được bảo vệ tốt hơn.
Do vậy, đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể hơn chính sách của nhà nước trong bảo vệ và phát triển rừng tại Điều 89 chính sách đầu tư trong lâm nghiệp, nhằm khuyến khích và nâng cao được trách nhiệm của người dân tham gia bảo vệ rừng. Về hình thức sở hữu, Điều 7 của dự thảo luật quy định hai hình thức sở hữu, gồm rừng sở hữu toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu và rừng sở hữu thuộc tổ chức, hộ gia đình do cá nhân, cộng đồng dân cư. Đại biểu Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) cho rằng quy định hai hình thức sở hữu này chưa phù hợp với Hiến pháp và các quy định khác của pháp luật, bởi lẽ trong Điều 53 của Hiến pháp và Điều 4 của Luật Đất đai năm 2013 đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng theo quy định của luật này. Trong khi rừng bao gồm cả đất rừng nên không thể giao quyền sở hữu cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư mà chỉ giao cho các chủ thể này quyền sử dụng. Đại biểu đề nghị cần cân nhắc thận trọng trong quy định này. Về chủ rừng, Điều 21 dự thảo Luật quy định hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư là đối tượng được Nhà nước giao rừng và cho thuê rừng (Điều 22), và được công nhận là chủ rừng tại Điều 8 của dự thảo Luật. Cụ thể, hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao hoặc cho thuê rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên hoặc rừng trồng. Cộng đồng dân cư được nhà nước giao rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng trồng. Tuy nhiên, theo đại biểu Lưu Văn Đức (Đắk Lắk), quy định trên chưa cụ thể, dự thảo không quy định điều kiện để hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng. Song, tại khoản 4 Điều 20 dự thảo quy định giao rừng, cho thuê rừng phải căn cứ vào năng lực quản lý rừng bền vững của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, năng lực quản lý rừng bền vững như thế nào, dự thảo Luật chưa xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn, phương pháp và cơ quan nào xác định những năng lực đó. Bên cạnh đó, quy định này không phù hợp đối với hộ gia đình, cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu quy định như vậy sẽ thu hẹp cơ hội được nhà nước giao đất, giao rừng, cải thiện sinh kế đối với chủ rừng là cộng đồng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, trong dự thảo chưa quy định về vai trò bảo vệ rừng của cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống tại chỗ. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung thêm quy định về việc ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại chỗ. Về phân loại rừng, đa số các ý kiến đều nhất trí phân loại rừng thành 3 loại như dự thảo rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Một số ý kiến khác đề nghị phân loại thành 2 loại rừng là rừng kinh tế bao gồm rừng sản xuất và rừng bảo vệ gồm rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
|