Xưa có một nữ hoàng sống ở
thành phố Benaras tên là Khema - vợ nhà vua Bahuputtaka. Một đêm, nữ hoàng mơ
thấy con ngỗng bằng vàng rất đẹp, có trí tuệ tuyệt vời. Nữ hoàng bèn cầu khẩn
nhà vua tìm mọi cách cho bà gặp bằng được con ngỗng trong mơ ấy.
Nhà vua đã yêu cầu các quan
đại thần tìm hiểu tất cả những gì họ có thể biết về một loài ngỗng như vậy. Và
quả thật trong ngọn núi xa xôi có một con ngỗng vàng như thế, nhưng nó hiếm khi
xuất hiện nên rất khó tìm.
Các quan đại thần khuyên đức
vua nên xây một cái hồ tuyệt đẹp trên vùng ngoại ô Benaras để hàng năm thu hút
những sinh vật hiếm có và đáng yêu đến cư trú. Bằng cách này có thể thu hút được
con ngỗng vàng và nữ hoàng có thể trông thấy điều nàng mong ước.
Đức vua Bahuputtaka và nữ
hoàng đã mời tất cả những loài chim đến sống ở đó, hứa sẽ không bao giờ làm hại
chúng. Ngô, thóc, hạt kê được rải rác ở những nơi quen thuộc hàng ngày để thu
hút các loài chim.
Hướng về phía Bắc, ở ngọn
núi Cittakuta, có khoảng 90 ngàn con ngỗng hoang, đầu đàn là một con ngỗng vàng
rất đẹp được gọi là vua Dhatarattha - vua của các loài ngỗng.
Tiếng tăm của cái hồ kỳ diệu
đã truyền đến tai vua Dhatarattha. Vài con ngỗng cũng đến gặp vua của chúng và
xin được đến cái hồ tuyệt diệu đó để ở - nơi được hứa hẹn luôn đầy đủ thức ăn và
được bảo vệ an toàn. Đức vua đồng ý và đưa toàn bộ đàn ngỗng bay xuống phía Nam,
hướng về hồ Benaras.
Trong lúc đó, tại hồ, nhà
vua Bahuputtaka yêu cầu tất cả các thợ săn phục kích xung quanh để bắt cho kỳ
được con ngỗng vàng nào vô tình bay ngang qua. Sáng hôm đó, khi người đứng đầu
đội thợ săn nhìn thấy đàn ngỗng đang đến gần, ông ta ngay lập tức đi cài bẫy ở
giữa những bông hoa loa kèn nước và những bông sen. Người thợ săn đoán chắc rằng
con đầu đàn nhất định sẽ phải đậu xuống đó trước tiên.
Đúng như dự đoán, bàn chân
của nhà vua Dhatarattha vừa chạm nước đầu tiên đã sa bẫy. Chứng kiến việc này,
những con ngỗng khác hoảng loạn kêu trong đau khổ. Nhưng không một con ngỗng nào
có đủ can đảm để giải cứu cho vua của chúng và vì thế chúng đã bay trở lại núi
Cittakuta cho an toàn, ngoại trừ một con ngỗng thân cận nhất của vua Dhatarattha
tên là Sumukha.
Vua ngỗng khẩn nài Sumukha
bay đi để được an toàn, nhưng Sumukha trả lời rằng nó không bao giờ rời bỏ người
chủ của mình trong lúc đối mặt với nguy hiểm.
Khi người thợ săn tiến gần
đến, Sumukha quyết định cầu xin lòng trắc ẩn của người thợ săn, xin ông tha mạng
cho đức vua của nó và xin được chết thay. Người thợ săn liền quay sang hỏi vua
ngỗng có cảm thấy hối tiếc và sợ hãi khi đã bị sập bẫy hay không, nhưng vua
Dhatarattha đã khẳng khái trả lời rằng: “Thật là vô ích để chống lại những gì
gọi là định mệnh và buộc phải chấp nhận thì ta không hề thấy khổ đau nữa. Nhưng
ta chỉ có một mong ước trước khi chết - đó là đừng làm hại thần dân của ta. Hãy
thả Sumukha trở về với bầy đàn trên núi cao. Sumukha không đáng bị hy sinh hay
làm vật thế mạng cho ta”.
Nghe thấy những điều này,
người thợ săn thấy rằng cả hai con ngỗng đều có lòng cao thượng và sự hy sinh
cao cả. Ông cũng đã không quan tâm đến phần thưởng của đức vua và quyết định làm
đúng với lương tâm của mình, thả tự do cho chúng. Ông nói rằng, cũng như
Sumukha, ông sẵn sàng chết vì đức vua của mình, và ông sẽ thả tự do cho cả hai
bay đi bất cứ nơi nào chúng muốn.
Sau đó ông nới lỏng chân của
con ngỗng vàng ra và rửa sạch vết thương. Trong lúc người thợ săn nỗ lực cố định
lại chỗ trật khớp thì kỳ lạ chưa, cái chân của vua ngỗng Dhatarattha đã khoẻ lại
như chưa bao giờ bị thương.
Vua ngỗng và Sumukha rất vui
sướng. Chúng cho rằng người thợ săn đầy lòng trắc ẩn này sở dĩ giăng bẫy chúng
là vì phải tuân theo lệnh của người khác. Người thợ săn trả lời rằng ông ta làm
việc đó theo mệnh lệnh của đức vua, rồi kể lại về giấc mơ của nữ hoàng.
Ngỗng vàng quyết định đến
gặp đức vua Bahuputtaka. Nếu vua ngỗng xuất hiện một cách tự nguyện, đức vua có
thể sẽ đồng ý cho nó và đàn ngỗng đến thăm khu hồ mà không bị giam cầm.
Khỏi phải nói, nhà vua và
hoàng hậu đã vui mừng như thế nào khi nhìn thấy hai con ngỗng tuyệt vời. Vua đặt
chúng vào một cái lồng bằng vàng và cho chúng ăn thức ăn với mật ong, ngũ cốc và
sữa. Sau đó, Vua Bahuputtaka dành cả đêm để thảo luận với vua của loài ngỗng.
Sau khi nghe câu chuyện cảm
động xảy ra bên hồ, từ những lời lẽ thuyết phục đầy trí tuệ của ngỗng vàng, nhà
vua Bahuputtaka quyết định thả tự do cho vua ngỗng và Sumukha, đồng thời khen
thưởng người thợ săn đã có hành động sáng suốt.
Ngỗng vàng quay trở lại với
đàn cùng sự hộ tống của người bề tôi trung thành là Sumukha. Thỉnh thoảng đàn
ngỗng lại về thăm cái hồ tuyệt diệu cùng nhà vua và hoàng hậu mến khách, tình
bạn giữa họ bền chặt mãi mãi.
TT
(St)