Chuyên gia kinh tế thuộc
Ngân hàng Hoàng gia Canada (CIBC) cho rằng 1 năm sau khi các nước đang phát
triển như Brazil cáo buộc Mỹ và một số nền kinh tế phát triển khác thao túng tỷ
giá thông qua làn sóng nới lỏng định lượng, các Ngân hàng Trung ương thuộc nhóm
10 quốc gia thành viên của Hiệp ước những dàn xếp chung về cho vay (G-10) cũng
nỗ lực hơn nhằm ghìm giá nội tệ.
![Thế giới trước sóng gió tiền tệ năm 2013](http://image.baotayninh.vn/news/2012/20121228/fckimage/58261473748715_songgio.jpg) |
Ảnh
minh họa |
Các thành viên G-10 gồm các
nước: Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Anh và
Mỹ đã phát ra những tín hiệu rằng họ sẽ can thiệp thị trường nhằm ghìm giá nội
tệ trước làn sóng nới lỏng định lượng toàn cầu.
Mỹ đã bơm lượng tiền khổng
lồ vào nền kinh tế, tiếp đó là đến Ngân hàng trung ương châu Âu và hiện giờ thị
trường trong tình trạng cảnh giác cao khi ông Shinzo Abe trở lại chính trường
(lần thứ 2 làm Thủ tướng) với chủ trương nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ để ghìm giá
đồng yên.
Trước đó, Thống đốc Ngân
hàng Trung ương Anh Mervyn King cảnh báo, các nền kinh tế hàng đầu thế giới có
nguy cơ rơi vào cuộc chiến tranh tiền tệ mới khi nhiều nước tìm cách giải quyết
vấn đề kinh tế bằng cách thao túng tiền tệ nhằm có lợi thế thương mại.
“Chúng tôi nhận thấy bằng
chứng là tỷ giá hối đoái đóng vai trò lớn hơn trong quyết định chính sách của
các Ngân hàng Trung ương. G10 nhiều khả năng sẽ theo chân các nước mới nổi tăng
cường can thiệp thị trường tiền tệ hoặc ít nhất điều chỉnh chính sách hối đoái”,
chuyên gia Adam Cole và Elsa Lignos tại ngân hàng CIBC nhận định.
Các Ngân hàng Trung ương G10
ngày càng lo ngại về thị trường tiền tệ và phát tín hiệu có thể can thiệp vào
thị trường này. Để đo mức độ sẵn sàng can thiệp thị trường, các chuyên gia đã
lập ra một chỉ số “can thiệp” với thang điểm từ 0-10. Nếu chỉ số càng thấp nghĩa
là can thiệp chỉ ở mức độ bình luận, nhưng chỉ số càng cao cho thấy sự sẵn sàng
đưa ra chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu tỷ giá hối đoái nào đó.
Thực tế khảo sát cho thấy,
ngoài Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ áp trần tỷ giá franc với euro, Ngân hàng
Trung ương Na Uy có chỉ số can thiệp cao nhất khi luôn đưa ra liên hệ giữa đồng
krone mạnh với khả năng hạ lãi suất để ghìm giá nội tệ.
Trong khi đó, Ngân hàng
Trung ương New Zealand nhạy cảm nhất với những biến động của nội tệ - điều trái
ngược hoàn toàn với Ngân hàng Trung ương Australia với mức độ lo ngại thấp nhất.
Theo số liệu từ Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), lượng dự trữ ngoại hối của các Ngân hàng Trung ương trên toàn cầu
đã tăng từ 6.7000 tỷ USD trong năm 2007 lên 10,5 nghìn tỷ USD vào giữa năm 2012
– tăng 57% trong vòng chưa đến 5 năm. Trong đó, Thụy Sĩ là nước ghi nhận mức
tăng mạnh nhất. Đây chính là dấu hiệu cho thấy các Ngân hàng Trung ương trên
toàn thế giới đang tích cực dự trữ ngoại tệ để ngăn chặn xu hướng tăng giá của
đồng nội tệ.
Chính sách lãi suất siêu
thấp cùng với các gói nới lỏng định lượng như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang
thực hiện là một trong những nguyên nhân khiến đồng nội tệ giảm giá. Tuy nhiên,
một số nước lại dùng cách khác : can thiệp vào tỷ giá bằng cách bán ra nội tệ và
mua vào ngoại tệ. Trong tháng 11 vừa qua, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã bán
ra đồng Won và mua vào ít nhất là 1 tỷ USD trên thị trường tiền tệ để ngăn chặn
đà tăng giá của đồng won. Tuy nhiên, các biện pháp can thiệp trên thị trường
tiền tệ chỉ mang lại những hiệu ứng nhất định và thường vấp phải sự chỉ trích
mạnh mẽ của các nước khác.
Trong khi đó, Edwin Truman,
chuyên gia kinh tế đến từ Viện nghiên cứu Peterson, lại cảnh báo rằng những động
thái này có thể khiến sự ổn định của các đồng tiền bị lung lay nếu như mọi thứ
đi quá xa. Hơn nữa, hạ giá đồng nội tệ quá nhiều cũng khiến chiến tranh thương
mại bùng nổ.
Chiến tranh thương mại
(trong đó các nước hạn chế nhập khẩu từ nước khác) là chính sách đã được áp dụng
phổ biến trong những năm 1930 và khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu bị hạn chế.
Theo VGPnews