Xã hội   Giáo dục

BAOTAYNINH.VN trên Google News

Trao đổi

Thu học phí cần tính đến điều kiện của địa phương và học sinh

Cập nhật ngày: 01/11/2021 - 00:09

BTN - Nếu được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua trong kỳ họp sắp tới (dự kiến tổ chức vào cuối năm 2021), việc đóng học phí của phụ huynh, học sinh trên địa bàn tỉnh sẽ được thực hiện từ năm học 2022-2023 trở đi.

Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh vừa tổ chức lấy ý kiến phản biện về dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh “Quy định mức học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống quốc dân trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”.

Nếu được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua trong kỳ họp sắp tới (dự kiến tổ chức vào cuối năm 2021), việc đóng học phí của phụ huynh, học sinh trên địa bàn tỉnh sẽ được thực hiện từ năm học 2022-2023 trở đi.

Việc xây dựng dự thảo nghị quyết này nhằm thực hiện Nghị định số 81/2021/CP ngày 27.8.2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo”. Đây là vic làm kp thi và hết sc cn thiết đối vi công tác qun lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn tnh trong điu kin hin nay.

Dự thảo nghị quyết này chỉ tập trung vào 3 đối tượng chủ yếu là trẻ em ở các cơ sở giáo dục mầm non, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông (kể cả học sinh ở các cơ sở dạy bổ túc văn hoá).

Về cơ bản, dự thảo nghị quyết tương đối cụ thể, ngắn gọn; tuy nhiên, có một số vấn đề cần phải làm rõ, để khi nghị quyết được thông qua sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống hơn.

Thứ nhất: Về hình thức dự thảo nghị quyết cơ bản thống nhất, nhưng cần nghiên cứu lại tiêu đề của dự thảo “Quy định mức học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống quốc dân trên địa bàn tỉnh Tây Ninh”.

Điu 2, Nghị định số 81/2021/CP quy định đối tượng áp dụng là: “trẻ em mầm non, học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh (sau đây gọi chung là người học) đang học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp; các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân có liên quan”.

Như vậy, Nghị định 81 về đối tượng là rất rộng, bao hàm cả các ngành học, cấp học, trong khi dự thảo nghị quyết của tỉnh chỉ có đối tượng hẹp là trẻ em ở các cơ sở giáo dục mầm non, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông (kể cả học sinh học ở các cơ sở dạy bổ túc văn hoá).

Do đó, tiêu đề dự thảo nghị quyết cần ghi thẳng: “Quy định mức đóng học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh” là ngắn gọn, dễ hiểu.

Đơn vị: nghìn đồng/học sinh/tháng

 

Vùng

Năm học 2022 - 2023

Mầm non

Tiểu học

THCS

THPT

Thành thị

Từ 300 đến 540

Từ 300 đến 540

Từ 300 đến 650

Từ 300 đến 650

Nông thôn

Từ 100 đến 220

Từ 100 đến 220

Từ 100 đến 270

Từ 200 đến 330

Vùng dân tộc

thiểu số và miền núi

Từ 50 đến 110

Từ 50 đến 110

Từ 50 đến 170

Từ 100 đến 220

Cũng tại Điều 2, dự thảo nghị quyết ghi “Thống nhất thông qua mức học phí đối với các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Tây Ninh như sau”, cần bỏ cụm từ này, vì không phù hợp nội hàm nghị quyết và thông thường phần tổ chức thực hiện của nghị quyết đã thể hiện.

Thứ hai: Về nội dung dự thảo có nhiều vấn đề cần làm rõ để nghị quyết dễ đi vào cuộc sống. Cụ thể: tại Mục a, Khoản 1, Điều 2 của dự thảo quy định về mức học phí đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên năm học 2022-2023; trong đó, mỗi học sinh ở bậc giáo dục mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông khu vực thành thị phải đóng 300.000 đồng/tháng; khu vực nông thôn thì học phí của giáo dục mầm non và trung học cơ sở là giống nhau, cùng 100.000 đồng/tháng; đối với trung học phổ thông có tăng lên 200.000 đồng/học sinh/tháng.

Trong khi đó, tại điểm a, Khoản 2, Điều 9 Nghị định 81/2021/CP quy định về khung học phí (mức sàn - mức trần) đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên năm học 2022-2023 như sau:

Vấn đề đặt ra là Tây Ninh có 449 đơn vị trường học; trong đó, số cơ sở tự bảo đảm chi phí thường xuyên là 1, số cơ sở ngân sách chi 100% cho hoạt động là 307, số cơ sở ngân sách bảo đảm một phần chi hoạt động thường xuyên là 141 cơ sở.

Như vậy, cần làm rõ đơn vị tự chủ được mt phn và đơn vngân sách rót chi 100% thì vic thu hc phí có khác nhau không; trong đó, mức thu học phí cần tính đến yếu tố khuyến khích đối với các cơ sở tự chủ và tiến tới tự chủ nhiều hơn. Do đó, đề nghị việc thu học phí đối với các cơ sở ngân sách bảo đảm chi 100% nên có mức thấp hơn.

Bên cạnh đó, học phí đối với học sinh phổ thông ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp được quy định như thế nào, thiết nghĩ, cũng cần đề cập vào nghị quyết. Nghị định 81/2021/CP có quy định học phí của học sinh phổ thông là con em người dân tộc, vùng khó khăn; dự thảo nghị quyết của tỉnh không nêu và đối với việc học online thì mức học phí ra sao, hoặc vừa học online vừa học trực tiếp cũng cần có quy định học phí cụ thể.

Nguyễn Nhiếm