Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Ngày bị cáo Đặng Thanh Tuấn giao cấu lần đầu tiên với T là ngày 25.7.2015. Thời điểm này, T đã được 13 năm 3 tháng, 3 ngày tuổi. Theo quy định tại khoản 4 Điều 112 của BLHS, Tuấn không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”.
Bị cáo mừng rỡ khi toà tuyên không phạm tội.
“Theo nguyên tắc xác định tuổi của bị hại là người chưa thành niên được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT của VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và Bộ LĐ-TB&XH, ngày sinh của L.N.T.T (sau đây gọi là T) là ngày đầu tiên trong khoảng thời gian xác định sinh, tức là ngày 22.4.2002. Ngày bị cáo Đặng Thanh Tuấn giao cấu lần đầu tiên với T là ngày 25.7.2015. Thời điểm này, T đã được 13 năm 3 tháng, 3 ngày tuổi. Theo quy định tại khoản 4 Điều 112 của BLHS, Tuấn không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”.
Ngoài ra, Tuấn giao cấu với T là do hai bên tự nguyện; tại thời điểm giao cấu với T, Tuấn mới hơn 16 tuổi, chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giao cấu với trẻ em” theo Điều 115 BLHS, do đó, bị cáo Tuấn không có tội, tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo theo quy định pháp luật”- chủ toạ phiên toà, thẩm phán Nguyễn Văn Tông, thay mặt HĐXX đã tuyên án như trên khi vụ án “Hiếp dâm trẻ em” mà người bị hại có hai giấy khai sinh được TAND tỉnh đưa ra xét xử trở lại vào sáng ngày 8.9.2017, sau khi bị TAND cấp cao tại TP.Hồ chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên huỷ án, trả hồ sơ, yêu cầu điều tra lại theo thủ tục chung vào năm 2016.
Trong phần tuyên án, HĐXX nhận định vụ án như sau: vào khoảng thời gian từ ngày 25.7.2015 đến ngày 7.11.2015, bị cáo Tuấn đã 6 lần thực hiện hành vi giao cấu với bị hại T tại nhà trọ ở xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu. Khi Tuấn thực hiện hành vi giao cấu với cháu T, bị cáo dưới 18 tuổi. Do đó, bị cáo Tuấn có tội hay không có tội cần phải xác định bị hại T sinh ngày, tháng, năm nào để tính lần giao cấu đầu tiên (ngày 25.7.2015), bị hại T trên hay dưới 13 tuổi, làm cơ sở cho việc định tội.
Toà xác định, ngoại của cháu T là ông Lê Hồng Hưng cho biết, ông đưa chị Lê Hồng Thuý (con gái ông Hưng) đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh sinh cháu T. Lúc này, chị Thuý mới 13 tuổi, ông Hưng lấy tên người em ruột là bà Lê Thị Hoa khai là mẹ cháu T để làm thủ tục sinh nhưng bệnh viện lại ghi nhầm là Lê Kim Hoa.
Sau khi sinh con, chị Thuý trốn bệnh viện về. Khi đó, ông Hưng cũng không có mặt ở bệnh viện nên không lấy giấy chứng sinh. Một thời gian sau, ông Hưng và chị Thuý giao cháu T cho ông Phạm Văn Hon nuôi dưỡng. Ông Hon đi đăng ký khai sinh cho cháu T ở xã Bàu Năng và đặt tên là Nguyễn Thị Thuý Liễu, tên cha mẹ cháu cũng không đúng.
Khi cháu đến tuổi đi học mẫu giáo, chị Thuý mới biết giấy khai sinh của con mình không đúng tên, ngay cả tên cha mẹ cũng không đúng nên chị Thuý tự ra xã Bàu Năng làm lại giấy khai sinh cho cháu T sinh ngày âm lịch là ngày 2.10.2002, đúng với ngày dương lịch là ngày 6.11.2002.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT thu thập được giấy chứng sinh tại bệnh viện từ năm 2002, ghi tên mẹ là Lê Kim Hoa sinh con gái vào lúc 2 giờ 40 phút ngày 6.11.2002. Tuy nhiên, lời trình bày của ông Hưng và chị Thuý có nhiều mâu thuẫn.
Lúc thì chị Thuý khai ông Hưng đi làm giấy khai sinh, lúc thì ông Hưng khai chị Thuý đi làm giấy khai sinh: “T sinh vào ngày tháng năm nào tôi không nhớ, chỉ nhớ sinh năm 2002. Sau đó, tôi đi làm giấy khai sinh cho T nhưng không nhớ ngày tháng năm nào (BL 118)”.
Ông Hưng khai thêm: “Tôi lấy tên của người em gái của tôi là Lê Thị Hoa, đứng tên mẹ cháu T trong giấy chứng sinh. Giấy chứng sinh này tôi đã để mất từ lâu” (BL254). Toà cũng nhận định, giấy chứng sinh có thông tin người sinh là Lê Kim Hoa không có chồng là không phù hợp với em ruột của ông Hưng là chị Lê Thị Hoa, đã có chồng nhưng chưa có con, đang sinh sống tại Vĩnh Long. Tên thật của chị Hoa là Lê Thị Hoa.
Theo xác nhận của Ban nhân dân ấp Ninh Phú, Công an xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu, trên địa bàn ấp Ninh Phú không có ai tên Lê Kim Hoa. Như vậy, cháu T có hai giấy khai sinh. Lời khai của chị Thuý và những người có liên quan đều không đủ cơ sở xác định chính xác ngày sinh của cháu T. Toà cấp phúc thẩm đã huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại với lý do cần giám định xương của người bị hại, xác định chính xác tuổi của bị hại làm cơ sở xác định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Tuấn là cần thiết, phù hợp với Thông tư số 01.
Theo bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi của Phân viện Khoa học hình sự- Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh: “Tại thời điểm giám định (ngày 22.2.2017), bị hại T có độ tuổi từ 14 năm 4 tháng đến 14 năm 10 tháng. Tức người bị hại sinh trong khoảng thời gian từ ngày 22.4.2002 đến ngày 22.10.2002. Đây là kết luận có tính khoa học và chính xác nên cần căn cứ kết luận này để xác định tuổi của người bị hại.
Trong phần xét hỏi, HĐXX và các luật sư đã tập trung xét hỏi (riêng đại diện VKS không tham gia phần xét hỏi), làm rõ nội dung về ngày tháng năm sinh của bị hại T để làm cơ sở cho việc định tội.
Tại phiên toà, trả lời HĐXX, chị Thuý luôn xác định ngày sinh của cháu T là ngày 2.10.2002 âm lịch, tức ngày 6.11.2002 dương lịch, phù hợp với cáo trạng mà VKS đã căn cứ vào ngày sinh này để truy tố bị cáo Tuấn tội “Hiếp dâm trẻ em” theo Điều 112 BLHS. Trước HĐXX, nội dung những câu trả lời của chị Thuý chưa thuyết phục.
Bào chữa cho bị cáo Tuấn, các luật sư Nguyễn Hữu Lộc, Lê Quang Vũ (Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng VKS cáo buộc hành vi phạm tội của Tuấn về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo Điều 112 BLHS là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật với lập luận trên cơ sở giám định pháp y về độ tuổi của Phân viện Khoa học hình sự- Bộ Công an, áp dụng theo Thông tư liên tịch số 01, bị cáo Tuấn không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”, trong khi VKS đề nghị phạt bị cáo Tuấn từ 8 - 10 năm tù tội “Hiếp dâm trẻ em”.
Trên nguyên tắc xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01 như đã nêu ở phần nhận định trên, HĐXX quyết định tuyên bố Đặng Thanh Tuấn không có tội và tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà.
ĐỨC TIẾN - THIÊN TÂM