Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTN) - Vậy là vừa đúng 100 năm, kể từ ngày hoà thượng Từ Phong đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi chùa Thiền Lâm. Đấy là vào năm 1914, sau khi hoà thượng đã có 10 năm tu tụng trong một ngôi chùa cất tạm trên gò bằng tranh tre lá. Vậy mà cũng phải mất thêm 11 năm nữa, đến năm 1925 chùa mới tạm hoàn thành với móng đá, tường xây, mái ngói.

|
Bia kỷ niệm khánh thành đường vào chùa
Trong cuốn Đạo sử (đạo Cao Đài) do nữ Đầu sư Hương Hiếu biên soạn, có đoạn viết về chùa Gò Kén vào năm 1926 như sau: “Cảnh chùa này vốn của hoà thượng Như Nhãn ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong bổn đạo của ông mà lập ra. Tháng 7 năm Bính Dần (Aout 1926), ông tình nguyện dâng chùa ấy cho Đại đạo Tam Kỳ phổ độ để làm thánh thất.
Khi ấy chùa cất mới vừa xong, nhưng chưa sơn phết, chưa tráng xi măng và chung quanh chùa vẫn còn bụi cây sầm uất…”. Bởi thế mà ngày khai đạo Cao Đài 18.11.1926, tức đêm 14 rạng ngày 15.10 năm Bính Dần cũng là ngày khánh thành chùa Thiền Lâm, mà lúc này được coi như thánh thất đầu tiên của đạo Cao Đài.
Như vậy là công cuộc xây chùa Gò Kén đã kéo dài 12 năm- từ 1914 đến 1926. Mà lại xây trong hoàn cảnh cái gò còn chơ vơ giữa đồng, mỗi mùa nước lớn, lại ngập trắng, bao la; làm gì có con đường nối ra quốc lộ 22B như hiện nay. Con đường dài 250 mét nối cổng ngoài tới cổng trong được làm trong năm 1924 (hiện vẫn còn bia đá ghi nhận sự kiện trước cây bồ đề, khắc bằng cả chữ Hán lẫn chữ Pháp).
Ấy thế mà chùa lại được làm tương đối kiên cố khang trang với vật liệu tốt nhất lúc bấy giờ. Như móng xây toàn đá chẻ Biên Hoà, mỗi viên dài một mét; đến nay, cạy rêu ra vẫn thấy màu đá trắng xanh. Cột kèo làm bằng bê tông cốt sắt, loại vật liệu vừa có mặt ở Việt Nam mà ở Tây Ninh có hai công trình đầu tiên được sử dụng là cầu Quan và chùa Thiền Lâm - Gò Kén.
Tường xây gạch với vữa vôi nghiền với lá cây ô dước. Chẳng biết do ngẫu nhiên hay cố ý mà cấu trúc chùa hơi giống với kiểu cấu trúc Toà thánh Cao Đài hoặc những ngôi thánh thất hiện nay. Mặt bằng kéo dài theo trục dọc từ trước ra sau, phân thành 9 nhịp (như kiểu thức các gian Cửu Trùng Đài trong Toà thánh).
Theo chiều mặt cắt ngang, kiến trúc cũng được chia thành 3 gian nhưng chỉ là để bố trí cột tương ứng với hệ vì kèo đỡ mái. Sự phân chia các không gian chức năng vẫn theo chiều dọc nhà. Một gian đầu làm hành lang trước. Bốn gian tiếp theo là phần ngôi chính điện thờ Phật. Sau đó là gian thờ Tổ, tiếp liền với phòng khách của các nhà sư.
Toàn bộ nằm trong một mặt bằng chữ nhật, bề ngang 11 mét, bề dài 31,4 mét (tính theo tim tường cột). Diện tích 345 mét vuông, tính ra cũng là lớn so với các ngôi chùa cổ.
Chưa có đường sá, sao lại có thể xây một kiến trúc to lớn như vậy, theo cách nhìn của người Tây Ninh những năm đầu thế kỷ 20? Xin thưa, nhờ có sông mẹ Vàm Cỏ Đông đấy ạ! Người ta có thể từ sông Vàm, rẽ vào vàm rạch Tây Ninh khoảng hơn ba cây số là tới gò. Ngoài ra, ở phía Bắc gò còn một con kênh đào gọi là kênh Mười Thước.
Đường thuỷ thuận tiện, nên người ta mới có thể chở đá lên từ tận núi Bửu Long ở xứ Đồng Nai. Nhân nói về chuyện xây dựng, cũng nên kể đến hai cái cổng. Cổng ngoài ngay bên lề quốc lộ 22B chỉ mới được xây năm 1973. Cổng trong được xây trong khoảng năm 1926 - 1927, nghĩa là khoảng thời gian có lễ ra mắt của đạo Cao Đài.
Tiếc rằng trước khi xây cổng mới cùng với bờ tường rào mới hiện nay, dù sư trụ trì Thích Thiện Nghĩa rất có ý thức bảo tồn kiến trúc cổ nhưng đã “lực bất tòng tâm”. Hai trụ cổng vừa được “bứng” lên để di dời vào bên trong thì sụp đổ do trụ xây bằng vữa vôi chịu mưa nắng gần trăm năm nay đã mục.
Một chuyện khác là khi hoà thượng Từ Phong (Như Nhãn) xây chùa, không xin phép chính quyền Pháp. Chỉ đến khi đã đắp con đường nối quốc lộ 22B vào chùa năm 1924 và khi chùa đã cơ bản xây xong thì chính quyền thực dân mới biết mà tra xét.
Thế là hoà thượng phải chạy đôn chạy đáo để hợp thức hoá ngôi chùa vừa xây dựng. Dấu tích chuyện này còn đến nay gồm một tờ đơn xin lập chùa của ông Nguyễn Văn Tường (tức hoà thượng Từ Phong) kèm theo bản vẽ thiết kế (gọi là hoạ đồ) do Công ty Hạc Bình từ tận Paris vẽ gửi về. Dấu đỏ, chữ ký quan Tây được “cộp” vào ngày 12.6.1925. Còn chuyện tại sao ông Tường lại có được nguyên cả một cái gò rộng tới 7,2 ha thì vẫn chưa thấy giấy tờ nào ghi lại.
TRẦN VŨ