Dân tộc Ba Na- quê hương của anh hùng Núp, nơi hội tụ những nét
văn hoá đặc sắc nhất về kiến trúc nhà ở, phong tục tập quán, lễ hội… Trong đó có
nét văn hoá đặc trưng trong trang phục đã tạo nên sự duyên dáng của những chàng
trai, cô gái nơi đây.
Hình ảnh những chàng trai, cô gái trong trang phục thổ cẩm với
những hoa văn, họa tiết trang trí phong phú đã tạo nên bản sắc rất riêng của núi
rừng Tây Nguyên.
Đồng bào Ba Na thường mang trên mình bộ trang phục chất liệu thổ
cẩm. Bằng sự khéo léo của đôi bàn tay và những bí quyết đời trước để lại, họ đã
thêu dệt lên những bộ trang phục thổ cẩm bền đẹp. Người dân nơi đây đã biết lấy
chất liệu bông để chế biến thành vải. Bông sau khi được mọi người thu hoạch được
đem về phơi nắng trên nhà 3 ngày. Sau đó, đem vào máy quay để cho tơi sợi bông
ra, đây chính là cách khiến những sợi bông mềm hơn. Đặc biệt, họ lấy mật ong làm
một thứ sáp để bôi trơn sợi vải. Quan niệm như vậy là để tạo cho những bộ trang
phục sau khi dệt sẽ bền đẹp hơn và có màu sắc rất đặc trưng, mùi thơm của vải
cũng rất khác lạ. Chính điều đó tạo nên sự khác biệt rõ nét trên trang phục của
người Ba Na so với các dân tộc khác.
Họa tiết trên trang phục cũng thể hiện ý nghĩa nhất định và màu
sắc tinh vi thể hiện quan niệm đối xứng về trời - đất, vũ trụ, âm - dương.
Để tạo nên cho những bộ trang phục thêm rực rỡ, phong phú về họa
tiết hoa văn, thì màu sắc đã được đồng bào nơi đây chọn màu rất cẩn thận và kỹ
lưỡng. Nguyên liệu được chọn từ những thứ cây có trong tự nhiên như: rễ, lá,
vỏ cây, thảo mộc, màu vàng lấy từ củ Ktron, màu trắng lấy từ củ Kxan. Trang phục
của người Ba Na sử dụng 3 màu chính: vàng, đỏ và đen. Màu đỏ tượng trưng cho sức
mạnh, tình yêu. Màu trắng tượng trưng cho khát vọng, ước mơ. Màu đen là nguyên
lực, sức mạnh của núi rừng, của thiên nhiên. Trong các màu thì đồng bào Ba Na
coi trọng màu đen hơn cả và tôn sùng nó như một sức mạnh siêu nhiên. Nhìn vào
trang phục, người ta có thể thấy hình ảnh thiên nhiên thu nhỏ của mảnh đất nơi
đây.
Về kiểu dáng, trang phục nam nữ của đồng bào Ba Na tương đồng với
đồng bào Ê đê hay Giarai, chỉ khác biệt rõ nét ở họa tiết, hoa văn trang trí.
Phụ nữ nơi đây họ thường mặc áo bố cục dải băng, có trang trí ở
giữa một đường viền màu đỏ, mảnh hơn nam, và dưới gấu váy là đường kẻ màu trắng.
Vẫn là ba màu chủ đạo là đỏ, trắng và đen, nhưng trong dịp lễ hội, trang phục
của họ có phần sặc sỡ hơn. Ngoài ba màu chính ra còn điểm thêm những màu khác
như màu tràm, vàng, xanh thẫm và phụ kiện đi kèm tô điểm thêm cho trang phục
như: hoa tai, lược cài tóc, nhẫn ở 2- 3 ngón tay. Tục lệ đeo nhẫn bắt nguồn từ
quan niệm: mỗi ngón tay đều mang một sức mạnh. Ví như ngón cái tượng trưng cho
cha, ngón giữa tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực, ngón nhẫn tượng trưng cho
sức mạnh của tình yêu. Và, đeo nhiều nhẫn ở các ngón tay là thể hiện sức mạnh
tối cao. Theo phong tục của dân tộc này thì việc vận những bộ trang phục truyền
thống trong các lễ hội trong năm, và việc sử dụng các vật đính kèm như: bông
tai, vòng đồng, cườm… vừa mang ý nghĩa trang trí vừa là để trừ tà ma.
Trang phục nam nữ dân tộc Ba Na đều có cổ xẻ, áo ngắn tay,
thường là áo cộc tay. Trang phục áo nam thường là những dải băng to hơn. Khác
với nữ, nam thường đóng khố hình chữ T, cuốn quanh hông và xung quanh có cuốn
tua rua.
Trải qua nhiều năm tháng, nhưng cho đến tận ngày hôm nay, những
nét độc đáo trên trang phục của dân tộc Ba Na vẫn được gìn giữ tạo nên bản sắc
riêng độc đáo.
K.D (st)