BAOTAYNINH.VN trên Google News

Tư vấn pháp luật

Cập nhật ngày: 02/04/2009 - 07:38

Hỏi: Tôi và cô M. sống chung từ năm 1995. Đến năm 2002, chúng tôi mới đăng ký kết hôn và có 1 con chung. Năm 2005, hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng sau đó sống ly thân. Trong thời kỳ hôn nhân với cô M., cha tôi có cho tôi một phần đất thổ cư, vườn (được cấp giấy CNQSDĐ năm 2007 và chỉ mình tôi đứng tên). Nay cô M. đưa đơn xin ly hôn. Vậy xin hỏi, theo quy định của pháp luật, khi ly hôn, phần đất này tôi có phải chia đôi với cô M. hay không? Ngoài ra, trong thời gian ly thân, cô M. tự ý vay mượn nhiều khoản nợ mà tôi không được biết. Khi ly hôn những khoản nợ ấy sẽ được phân xử như thế nào? M.V.T (Hoà Thành)

Trả lời: Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung... Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung.

Điều 32 và 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cũng quy định về tài sản riêng của vợ, chồng như sau: Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình.

Đối chiếu các quy định ở trên thấy: Nếu ông và vợ ông không có thoả thuận sẽ đưa mảnh đất đó vào khối tài sản chung của vợ chồng thì ông có đủ cơ sở để chứng minh đó là tài sản được tặng, cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ là giấy tặng, cho của người cha, xác nhận của nhân chứng...

Tuy vợ chồng ông bà ly thân nhưng ông bà vẫn trong thời kỳ hôn nhân (chưa ly hôn). Như vậy, theo quy định tại Điều 25 Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.

Thông tin của ông chỉ thể hiện ông không biết việc vợ ông vay mượn tiền, nhưng không nói rõ số tiền vay này được dùng để làm gì. Nếu như việc vay mượn dùng cho sinh hoạt gia đình, chẳng hạn như nhu cầu ăn mặc hằng ngày, thuê, xây dựng sửa chữa nhà cửa, lo cho con cái học hành…, thì dù ông biết hay không biết việc vay mượn, ông cũng phải có trách nhiệm liên đới trả nợ.

Phòng PBGDPL- Sở Tư pháp


 
Liên kết hữu ích