Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Bà thì đen nhưng đá ngọc lại trắng có vân màu tím. Vì thế, mặt tượng phương phi, tươi sáng. Tượng ngồi trên ngai, áo mão đàng hoàng chạm khắc tinh vi, cao chừng trên dưới 1 mét. Nghĩa là cao bằng pho tượng Bà xưa cũ đứng cùng cậu Tài, cậu Quý ở phía sau. Nghe nói, khối đá ngọc ấy được tín chủ mua tận mỏ đá Myanmar, đem về thuê nghệ nhân chế tác.

|
Tượng Bà trên điện Bà ở núi Bà Đen.
Không còn nhớ năm, nhưng lại nhớ rõ ngày! Đó là ngày 4.6 còn năm thì vào khoảng 2011 đến 2012. Là thời điểm núi Bà có lễ rước rất trọng thể cỗ ngọc ấn của bà Linh Sơn thánh mẫu. Lễ có các quan chức tỉnh và cả Trung ương về dự. Người hiến tặng cũng có tên tuổi lớn. Đó là gia đình Phó GS, Tiến sĩ Huỳnh Quang Thuận, nguyên viện trưởng một viện nghiên cứu. Gia đình này tự kể, rằng là hậu duệ đời thứ 5 của vua nhà Nguyễn- Gia Long. Sau khi xong các nghi thức đón rước, an vị rất là long trọng, thì ấn được mở ra đóng thử ngay tại điện Bà. Bằng con mắt của một người am hiểu chữ Hán cổ kim, một vị sư bảo: ngọc thì ngọc thật, nhưng chữ là mới khắc, vì người ta đã không còn dùng chữ Hán cổ, thường được khắc trên ấn tín thời xưa. Vậy đã có thể khẳng định, cỗ ngọc ấn kể trên không phải là ấn cổ. Mà nếu Bà Linh Sơn xưa có ấn (nghe nói được vua ban) thì ấn này cũng là mới chế trên một viên đá ngọc xanh màu lục bảo mà thôi!
Lần lên núi gần đây nhất, vào tháng 4.2016, mới thấy trong điện Bà, ngoài cỗ ngọc ấn còn thêm một pho ngọc tượng nữa. Các nhà sư bảo, đấy cũng là tượng của gia đình hậu duệ vua Gia Long từng cung hiến ngọc ấn trước đây đem hiến tặng khoảng năm 2013. Quả thật, pho tượng mới này làm sáng cả một ngai thờ.
Bà thì đen nhưng đá ngọc lại trắng có vân màu tím. Vì thế, mặt tượng phương phi, tươi sáng. Tượng ngồi trên ngai, áo mão đàng hoàng chạm khắc tinh vi, cao chừng trên dưới 1 mét. Nghĩa là cao bằng pho tượng Bà xưa cũ đứng cùng cậu Tài, cậu Quý ở phía sau. Nghe nói, khối đá ngọc ấy được tín chủ mua tận mỏ đá Myanmar, đem về thuê nghệ nhân chế tác.
Nhiều chùa Tây Ninh có gian riêng thờ Bà, có tượng. Phần lớn tượng Bà trước đây đều có dáng nét trầm luân khắc khổ. Chứ đâu được ánh nhìn thanh thản, rỡ ràng như trên pho ngọc tượng. Chợt nhớ đến pho tượng Bà tạo bằng đá núi Bà ở chùa Thiền Lâm- Gò Kén. Trong các pho tượng Bà hiện có ở Tây Ninh, pho ở Gò Kén chắc chắn là lớn nhất. Cao tới gần 2 mét, khối đá có tiết diện gần vuông với cạnh khoảng 1 mét, nên tượng ấy nặng đến 3 tấn. Điều đáng chú ý là cũng giống như pho ngọc tượng, pho này cũng tạc Bà trên ngai ngồi thanh thản, hai tay ung dung đặt trước gối. Cặp mắt mở to dưới đôi mày cong vút. Có lẽ để cho thêm phần sinh động, người ta đã sơn vẽ trên phần đầu từ cổ trở lên. Để mặt tượng có nước da hồng mịn với mắt mi đen và cả môi son… Như nhiều tượng cổ dân gian, tượng bà Gò Kén cũng được tạo hình cách điệu với sự trau chuốt chủ yếu trên gương mặt phúc hậu, biểu lộ một tinh thần sáng trong thuần khiết, một phong thái ung dung. Tuy vậy, khối thân tượng dù đơn giản hơn nhưng cũng đã chú ý đến từng nếp lượn và các chi tiết trên trang phục. Bà có đầu tóc bới cao như phụ nữ Nam bộ xưa, vận áo dài xưa. Tiếc rằng, cũng như nhiều pho tượng khác, Bà đã được phật tử sùng kính khoác thêm cho nhiều lớp áo khăn thêu ren lộng lẫy, cầu kỳ kể cả đội chiếc mũ miện có gắn kết hình chim phượng cùng nhiều chuỗi đá, pha lê lấp lánh. Vậy nên, tài năng của người nghệ sĩ dân gian tạc tượng được rất ít người biết đến. Được biết, pho tượng này do anh Sáu Phước, chủ một xưởng chế tác đá ở Long Thành Trung hiến tặng.
Hai pho tượng vừa kể chỉ là tượng mới! Thế còn tượng xưa của Bà có trong khá nhiều ngôi chùa, miếu Tây Ninh? Pho cổ nhất, theo truyền thuyết cũng như Huỳnh Minh chép trong sách Tây Ninh xưa là pho tượng do “vua Gia Long truyền cho quan địa phương đúc cốt bà Đênh bằng đồng đen mà thờ tại động trên non linh”. Nếu đúng vậy thì tượng đã có hơn 200 năm tồn tại. Số phận pho tượng này cũng rất long đong, lận đận. Mà sự lận đận này có khi lại bắt nguồn từ chính truyền thuyết về pho tượng. Ấy là vào khoảng năm 1945- 1946 khi lính Pháp tái chiếm Tây Ninh, chúng cho quân lên chiếm núi Bà. Nghe đồn tượng quý nên lính Pháp đã lấy đem về tỉnh bán. Chuyện không rõ vì sao mà sau đó tượng lưu lạc đến đền thờ Phật mẫu của Toà thánh Cao Đài. Theo lời kể, cô Mười- một vị sư phụ trách điện Bà khi ấy đã về chùa Vĩnh Xuân lánh giặc, do được Bà mách bảo trong giấc chiêm bao, nên đã đi “xin” lại. Đến năm 1957, sau hơn 10 năm lưu lạc rồi pho tượng cũng được trở về an vị tại chùa Phước Lâm- chi nhánh của cụm chùa núi Bà Đen.
Sự thật là không có đồng đen, mà tượng bằng đồng đỏ, được đúc rỗng, cao khoảng 60cm. Phần đế phía sau bị móp, có lẽ do vết đạn bắn thời Pháp chiếm. Không một con số hoặc chữ nào để người xem biết tượng đúc năm nào. Nhưng cứ nhìn vào khối tượng, cũng có thể đoán là tượng xưa nhất. Bởi hình tượng còn gần gũi với người bình thường nhất. Cũng tóc bới cao với một vài vành khăn buộc giản đơn. Mũi thẳng, mày cong, mắt dõi xa xăm về phía trước. Tư thế ngồi vô cùng gần gũi, thân quen; chân trái xếp bằng, gối phải chống lên, tay phải đặt trên gối, tay trái nâng một cành sen. Trông bà y hệt một phụ nữ Nam bộ trên những trang sách xưa viết, vẽ về con người Nam bộ. Ngay sau tượng Bà trên cung thờ, còn có một bộ ba tượng gỗ. Ngoài pho chính, còn có 2 pho đứng hai bên, là các cậu Tài, cậu Quý- những người thân tín theo hầu. Ở pho tượng gỗ này, hình tượng về Bà đã được trau chuốt và “quan trọng hoá” hơn, bởi Bà đã “ngồi ngai” với mão áo, trang sức cầu kỳ lộng lẫy. Điều khác biệt lớn nhất là ở tay phải nâng một nhành hoa, không phải hoa sen.
Ngay trên điện Bà hiện nay, ngoài các pho tượng đã kể, vẫn cần biết một pho tượng mới. Đó là vào năm 2011, sau khi hoàn thành chuông lớn núi Bà nặng hơn 6 tấn, còn dư lại một khối lượng đồng. Ni trưởng Viện chủ mới đề nghị đúc thêm một tượng Bà, có thêm một số nữ trang vàng, bạc bỏ vào để nấu. Thế mới có một pho tượng đồng rất đẹp, được bày ngay phía trước cung thờ Bà trong điện. Đến lúc này chăng, hình tượng về Bà mới thật rõ ràng, sinh động. Tượng vừa có sự kế thừa pho tượng cổ xưa của núi, với tư thế chống gối phải, nâng cầm tay trái; lại vừa có sự minh triết trên nét mặt trầm tư tĩnh tại của một bậc chân tu.
Hoặc là Bà linh thiêng biến hoá. Hoặc là tượng luôn có gì đó gần gũi với con người tại thời điểm được sinh ra. Ngắm những pho tượng này thôi, cũng đủ để hình dung một phần lịch sử tu tụng ở núi Bà- đã một phần tư thiên niên kỷ trôi qua dưới trời mây trắng.
TRẦN VŨ