Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Nếu tính từ trung tâm thành phố Tây Ninh theo đường tỉnh 781 qua hướng cầu Quan đi thẳng khoảng 10km là đến trung tâm thị trấn Châu Thành. Tại vị trí này tiếp tục đi thẳng thêm chừng 3km nữa là đến bến Tầm Long thuộc xã Trí Bình. Đây là một bến sông rất nổi tiếng đã từng đi vào thi ca nhạc hoạ của xứ Tây Ninh xưa và nay.
Bến Tầm Long
Tuy bến Tầm Long nổi tiếng vậy nhưng hỏi ra ý nghĩa của “Tầm Long” là gì thì nay ít ai biết. Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, quyển 2, phần Sơn Xuyên Chí, Trấn Phiên An có chép về bến Tầm Long như sau: “Tầm Long Tân (Bến Tầm Luông) chỗ này thuộc địa giới huyện Thuận An, cách tây nam trấn 207 dặm, tiếp giáp với phủ Tầm Đôn của Cao Miên, đây là đường của người Cao Miên đem voi sang cống, có nhiều thuộc Cao Miên (người Cao Miên ở nước ta mà đóng thuế xong thì gọi là thuộc) cùng người Việt ở lẫn lộn với nhau, rừng rú rậm rạp, những chỗ đã được khai khẩn đều thành ra những cánh đồng trồng dâu mía” (trang 44, bản dịch của Lý Việt Dũng).
Đọc đoạn văn trên, có người sẽ thắc mắc tại sao Tầm Long Tân lại thuộc địa giới Thuận An? Vấn đề này xin trở lại một chút về lịch sử. Như chúng ta đã biết vào năm 1757, việc xác lập địa giới vùng đất Nam bộ của Chúa Nguyễn cơ bản coi như đã đâu vào đấy. Giai đoạn này người Việt từ các miền lên vùng Tây Ninh khai hoang lập ấp ngày càng nhiều. Sau khi đánh tan nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh khôi phục được hầu hết đất Gia Định.
Tháng 10.1799, Nguyễn Ánh cho thành lập đạo Quang Phong trên địa bàn Tây Ninh thuộc dinh Phiên Trấn, và đạo sở đặt tại vùng Cẩm Giang ngày nay. Sau đó, một số thôn làng trong đạo cũng bắt đầu thành lập. Đạo là một đơn vị hành chính khá đặc biệt và không bắt buộc trong hệ thống hành chính thời nhà Nguyễn. Đạo lập ra chủ yếu với mục đích quốc phòng. Người đứng đầu đạo được gọi là Quản đạo, có trách nhiệm coi giữ quốc phòng an ninh.
Các thôn của đạo Quang Phong đều được đặt thuộc tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình. Cho nên Trịnh Hoài Đức viết Tầm Long Tân thuộc địa giới huyện Thuận An cũng không có gì là lạ cả… Trong số những người đầu tiên đến khai phá vùng đất Tây Ninh xưa phải kể đến những người lính biên cảnh. Đó là 5 đội thuyền 15 chiếc với 720 lính biên cảnh do chúa Nguyễn bố trí dọc theo sông Vàm Cỏ vào giữa thế kỷ XVIII.
Cùng theo lực lượng này là những người dân viễn xứ. Họ thành lập những cụm dân cư dần mọc lên dọc theo sông Vàm Cỏ, ven sông Khê Lăng và ngay cả bến Tầm Long… Từ những điểm tụ cư ven sông rạch, người Việt đã mở rộng khai khẩn những vùng đất thấp, tạo nên vùng đất trù phú, ruộng vườn phì nhiêu. Tiếp theo đó, những lưu dân từ Ngũ Quảng đến Tây Ninh ngày một đông hơn, hình thành các làng xã...
Một cứ liệu quan trọng khác là sách Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc sử Quán triều Nguyễn biên soạn năm 1865, Hoàng Văn Lâu dịch, có đoạn nói về bến Tầm Long như sau: “Bến Tầm Long ở phía tây huyện Cửu An… tục gọi tiếng “qua sông” là Tầm Long, nay cũng nhân theo. Đầu sông là đường cống voi của Cao Man đi qua, nhiều dân Man và dân Kinh ở lẫn với nhau, khai khẩn rừng rú, đều thành đất trồng dâu gai cả” (phần tỉnh Gia Định, mục Núi Sông, trang 1680).
Từ những cứ liệu trên, ta có thể khẳng định rằng địa danh Tầm Long chỉ là cách ghi âm tiếng Khmer bằng chữ Hán và đọc theo âm Hán Việt. Và “Tầm Long” hoàn toàn không có nghĩa là “tìm vua” mà là qua sông, qua biên giới lãnh thổ của nước Việt mà thôi. Có thể nói, bến Tầm Long xưa kia là một bến sông đông vui tấp nập, trù phú, vì nằm nay trên con đường cống sứ của Cao Miên cho Đại Việt. Tầm Long cũng từng là trung tâm của huyện lỵ Phước Ninh.
Theo Bách khoa từ điển, năm 1957, tỉnh Tây Ninh chia thành 3 quận gồm có Châu Thành, Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng. Năm 1959, quận Châu Thành chia thành hai quận Phước Ninh và Phú Khương. Quận Phước Ninh có 15 xã; quận lỵ đặt tại Bến Sỏi, sau dời đến ngã ba Tầm Long, nay tương ứng với huyện Châu Thành và một phần huyện Tân Biên.
Ngày nay, với sự thuận tiện của hệ thống giao thông đường bộ hiện đại, bến sông xưa trở nên đìu hiu vắng vẻ. Nói đến Tầm Long, người ta chỉ biết ấp Tầm Long của Trí Bình, chứ bến xưa thì “con đò quên cả chuyến sang ngang” không biết tự thuở nào.
ĐÀO THÁI SƠN