Năm 1936,
tình hình chính trị nước Pháp có những chuyển biến có lợi cho nhân dân Đông
Dương. Trước họa phát xít và nguy cơ chiến tranh đe dọa loài người, phòng trào
chống phát xít, chống chiến tranh dâng cao ở Pháp, Tây Ban Nha…
Tháng 7 năm
1935, Đại hội VIII của Quốc tế Cộng sản đề xướng việc thành lập Mặt trận nhân
dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, bảo vệ hòa
bình, cải thiện đời sống nhân dân.

Năm 1948, ở tuổi 37, đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại
tướng và trở thành vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong ảnh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng đầu, thứ ba từ trái sang)
bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau lễ phong quân hàm Đại tướng, tại
Lục Rã, chân đèo Re, ngày 27/5/1948. Ảnh: TTXVN sưu tầm |
Tại Pháp,
tháng 1 năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp thành lập, bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng
Xã hội, Đảng Cấp tiến, Tổng Liên đoàn Lao động Pháp…Trong cuộc Tổng tuyển cử
tháng 4 năm 1936, Chính phủ phái tả lên cầm quyền, bao gồm những người thuộc
Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do Léon Blum, lãnh tụ Đảng Xã hội làm Thủ tướng.
Trong những
năm 1936 – 1939, nghề chính của Võ Nguyên Giáp là dạy học ở trường Thăng Long,
đồng thời anh cũng tiếp tục học trường Luật, nhưng phần lớn thời gian của anh
lại dành cho hoạt động báo chí.
Thời cơ anh
trở lại làm báo là lúc Mặt trận Bình dân Pháp giành được thắng lợi trong cuộc
Tổng tuyển cử ở Pháp.
Ở Việt Nam ,
vào thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào Mặt trận Dân
chủ và cuộc vận động Đông Dương đại hội.
Thời đó, ở một
góc ngã tư phố Tràng Tiền có đặt một bảng thông tin của ARIP (tên viết tắt của
Agence de Radio, d’information et de Propagande: Hãng Phát thanh, Thông tin và
Tuyên truyền). Hàng ngày đi dạy học qua đây, anh Giáp đều dừng lại. Một buổi
chiều tháng 6 năm 1936, tin thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp được công bố.
Tình hình đang chuyển biến theo chiều hướng thuận lợi. Anh Giáp nghĩ ngay tới
chuyện ra một tờ báo để đón thời cơ.
Theo luật pháp
của chính quyền thực dân, muốn ra báo bằng tiếng Pháp, chỉ cần nộp trước tờ khai
tên báo, chủ nhiệm, quản lý, nếu vi phạm pháp luật, những người này sẽ bị đưa ra
tòa xét xử. Nhưng muốn xuất bản một tờ báo tiếng Việt, phải xin phép, thể lệ rất
phiền phức và thường phải chờ đợi lâu.
May sao có tờ
Hồn trẻ của Hướng đạo sinh, vì thua lỗ phải tạm ngừng xuất bản, chủ nhiệm báo
sẵn sàng nhượng lại bản quyền. Anh Võ Nguyên Giáp bàn với anh Đặng Thai Mai và
các giáo sư trường Thăng Long cùng nhau góp tiền để làm cho tờ báo sống lại với
một nội dung hoàn toàn mới.
Chỉ hai ngày
sau khi Léon Blum tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Chính phủ Pháp, ngày 6.6.1936,
Tờ Hồn trẻ tập mới ra đời. Có thể nói đây là Tờ báo tiếng Việt đầu tiên công
khai cổ động đấu tranh cho các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ, đòi đại xá chính trị
phạm, ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp và tập hợp nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân Việt Nam nhằm phản ánh với phái đoàn điều tra của Chính phủ Mặt trận Bình
dân Pháp do Godart cầm đầu sẽ sang Đông Dương.
Báo rất được
bạn đọc hoan nghênh, in ra không đủ bán. Học sinh Thăng Long tình nguyện đi bán
báo và góp tiền ủng hộ báo.
Báo ra đến số
5 thì bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa. Tuy nhiên đây là tiếng chuông báo hiệu
phong trào hoạt động báo chí công khai của Mặt trận dân chủ Đông Dương trong
thời gian 1936 - 1939.
Không thể sớm
có một tờ báo Tiếng Việt trong tình hình ấy. Lúc đó có anh Nguyễn Thế Rục, đảng
viên Đảng Cộng sản Pháp về nước bị lao phổi rất nặng, nhà cầm quyền cho điều trị
tại gia đình. Anh Rục cùng với một số đồng chí trong đó có anh Giáp hình thành
một nhóm chỉ đạo, quyết định cho ra một tờ báo Tiếng Pháp. Ngày 16.9.1936, báo
Le Travaill (Lao động) ra số đầu tiên.
Anh
Giáp trở thành một biên tập viên chính, được phân công viết khá nhiều đề tài: Cổ
vũ Đông Dương đại hội, Mặt trận Dân chủ, thời sự quốc tế, đời sống nông dân với
các cuộc đấu tranh ruộng đất như Cồn Thoi, những cuộc đấu tranh bãi công của thợ
xẻ, thợ giày, thợ mỏ.
Thời gian này,
anh Giáp làm việc rất hào hứng, mặc dù sức khỏe của anh không tốt cho lắm. Nghe
tin có cuộc bãi công lớn của công nhân vùng mỏ, anh đã đạp xe đạp 200km từ Hà
Nội về tới Cẩm Phả để viết bài đăng báo. Cuộc bãi công nổ ra ngày 13.11.1936 lúc
đầu tại Cẩm Phả, với trên một vạn thợ mỏ tham gia, sau một tuần lan ra khắp vùng
mỏ với trên năm vạn người tham gia.
Chính quyền
thực dân Pháp điều động lính lê dương về vùng mỏ, uy hiếp tinh thần thợ bãi
công. Anh Giáp viết bài tố cáo đăng liên tiếp mấy số báo Le Travaill. Những bài
báo này đã gây được sự chú ý của dư luận trong nước và cả ở Pháp, tạo ra sự ủng
hộ đối với cuộc đấu tranh của thợ mỏ.
Le Travaill
tồn tại được 7 tháng với 30 số báo. Ngày 16.4.1937, nhà cầm quyền thực dân Pháp
ra lệnh đóng cửa.
Cuối năm 1936,
Luật ân xá chính trị phạm của Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp được ban hành ở
Đông Dương. Nhiều chiến sỹ Cộng sản từ các nhà tù trở về như các anh: Đặng Xuân
Khu (Trường Chinh), Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), Khuất Duy Tiến, Đặng Châu Tuệ,
Tông Phúc Chiểu…nhập ngay vào nhóm Le Travaill. Anh Trường Chinh đầu tiên viết
báo tiếng Pháp, từ mùa thu 1937, được chỉ định phụ trách về chính trị ở tất cả
các cơ quan ngôn luận của Đảng ở Bắc Kỳ.
Xứ ủy Bắc Kỳ
Đảng Cộng sản Đông Dương lập ra một Ủy ban vận động cách mạng nửa công khai do
anh Trường Chinh lúc đó là Xứ ủy viên phụ trách. Anh Giáp được chỉ định là một
thành viên của Ủy ban này.
Ủy ban đặc
biệt quan tâm đến các hoạt động báo chí của Đảng. Hàng loạt tờ báo tiếng Pháp và
tiếng Việt xuất bản công khai. Tờ này bị cấm, tờ khác xuất hiện, chiếm lĩnh trận
địa dư luận. Báo tiếng Pháp là các tờ Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến
lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta), Báo Tiếng Việt có các tờ Thế giới,
Đời nay, Tin tức, Ngày mới. Thanh niên dân chủ có tờ Bạn dân. Riêng tờ Giải
phóng xuất bản bí mật, ra được 3 số thì phải ngừng vì cơ quan ấn loát bị phát
hiện.
Anh Giáp viết
cho những tờ báo tiếng Pháp là chính nhưng cũng tranh thủ viết cho nhiều báo
tiếng Việt.
Trong phong
trào đấu tranh đòi tự do ngôn luận, Xứ ủy Trung kỳ đề xướng tổ chức Hội nghị Báo
giới toàn xứ. Hội nghị họp vào ngày 27.3.1937 tại Đông Ba, Huế. Anh Giáp thay
mặt báo Rassemblement và anh Hà Huy Giáp thay mặt báo Tiếng trẻ vào Huế dự. Đối
với anh Giáp đây là một dịp trở lại Huế, gặp gỡ nhiều bạn bè cũ trong một bầu
không khí đấu tranh cách mạng sôi động.
Trở ra
miền Bắc, anh báo cáo với Ủy ban và đề nghị Xứ ủy Bắc Kỳ cho tổ chức Hội nghị
Báo giới toàn xứ theo gương của Trung Kỳ và thành lập Hội Ái hữu báo giới Bắc
Kỳ. Anh được trao nhiệm vụ cùng với các anh Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu, Đào
Duy Kỳ, Phan Tử Nghĩa tổ chức cuộc hội nghị này.
Hội nghị lần
thứ nhất của báo giới Bắc Kỳ họp ngày 24.4.1937 tại Hội quán CSA số 1 phố
Charles Coulier (nay là Câu lạc bộ Thể dục thể thao Khúc Hạo). Hội nghị cử Võ
Nguyên Giáp làm Chủ tịch và anh Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch Ủy ban báo chí.
Trong công
việc báo chí, anh Giáp đã trải qua hầu hết các khâu của nghề báo, từ viết xã
luận, thời đàm nghị luận, điều tra, phóng sự, biên tập, duyệt bài, sắp xếp nội
dung, cho tới bố cục, lên trang, trình bày, đưa nhà in, sửa morrasse và không ít
khi cả việc phát hành báo.
Trong thời
gian anh Giáp làm báo Notre Voix, có những kỷ niệm khó quên trong đời làm báo
của anh.
Có lần
cùng một lúc, các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam đều bận việc
đột xuất, không kịp viết bài, anh Giáp ngồi từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm
sau, viết kín một thếp giấy 48 trang và bố cục, trình bày xong cả một số báo cho
kịp đưa xuống nhà in, sau khi ăn điểm tâm, lại tới trường Thăng Long dạy học.
Một hôm Tòa
soạn báo Notre Voix nhận được một bài báo gửi theo một con đường riêng từ Quế
Lâm (Trung Quốc) tới, với bút danh là P.C.Lin. P.C.Lin là ai? Anh em trong tòa
soạn đoán là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã về đến Quế Lâm! Qua việc gửi bài
cho Notre Voix, Người đã bắt liên lạc với phong trào cách mạng trong nước. Khó
mà tả được sự sung sướng và xúc động của anh Giáp và anh em trong tòa soạn. Loạt
bài đó được đăng dưới tiêu đề Thư từ Trung Quốc với chữ in nghiêng. Nguyễn Ái
Quốc luôn nhắc phải xây dựng một mặt trận dân chủ thật rộng rãi, đoàn kết, mọi
lực lượng có thể đoàn kết, tạo nên sức mạnh mới để giành thắng lợi.
Năm 1991, Hội
Nhà báo Việt Nam tặng Huy hiệu dành cho những người đã từng có từ 25 năm làm báo
trở lên, anh Giáp đã đón nhận phần thưởng này với ít nhiều tự hào. Có thể nói
trong suốt quá trình hoạt động Cách mạng, anh không mấy khi xa rời công tác báo
chí. Anh có nhiều kinh nghiệm làm báo.
Anh đã trao
đổi ý kiến về vấn đề này trong bài báo “Mười lăm năm làm báo trước Cách mạng
Tháng Tám”, đăng trên tạp chí Nhà báo và Công luận số tháng 8.1991 như sau:
“Nghề báo là một nghệ thuật đầy hứng thú. Sau này, khi chuyển qua công tác quân
sự, tôi thấy làm một số báo cũng giống như tổ chức một trận đánh hiệp đồng. Đó
là một công việc luôn luôn khẩn trương, phải phát hiện kịp thời mưu đồ, thủ đoạn
của giai cấp thống trị, yêu cầu, tâm lý đa dạng và thường xuyên thay đổi của bạn
đọc, nguyện vọng sâu xa của nhân dân, để biết mình phải làm gì.
Tính thời gian
rất quan trọng. Có được tin sớm để đăng đã khó. Nhưng khó hơn nhiều là nghệ
thuật đưa vấn đề đúng lúc, tác dụng sẽ được nhân lên gấp bội. Nội dung đương
nhiên cần được bảo đảm chính xác, chặt chẽ, nhưng hiệu quả đối với người đọc
thường lại do cách diễn đạt, trình bày quyết định. Bố cục không hợp lý sẽ làm
giảm hiệu quả của một số báo có nhiều bài hay.
Những bài
chính, phụ, ngắn, dài, nặng, nhẹ, phải kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tạo nên
sự hài hòa như những màu sắc của một tác phẩm hội họa, mới mang lại hứng thú cho
người đọc.
Đặt tên cho một bài báo rất khó. Tôi thường mất nhiều thời gian cân
nhắc tìm những kiểu chữ thích hợp cho đầu đề một bài báo chỉ vài ba dòng. Dòng
thứ hai thường quan trọng nhất, nhưng các dòng khác không thể coi nhẹ vì phải
góp phần tạo nên một chỉnh thể. Những kiểu chữ lớn, nhỏ, béo, gầy, đứng hoặc
nghiêng – đều có vai trò và hiệu lực riêng của nó trên trang báo mà người làm
báo không thể không biết tới.
Nghề làm báo
hao tâm tổn trí, gian khổ, nhưng người làm báo được đền bù xứng đáng là niềm vui
khi thấy tác dụng và hiệu quả của tờ báo trong đông đảo bạn đọc”./.
Trung
tướng Hồng Cư (baotintuc.vn)