BAOTAYNINH.VN trên Google News

Văn hoá Việt Nam trong thế giới phẳng: Nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững

Bài 4: Sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam trong thế giới phẳng 

Cập nhật ngày: 05/12/2021 - 23:46

BTN - Các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam đã trở thành cội rễ của sức mạnh mềm văn hoá dân tộc, là sức mạnh nội sinh, nguồn lực và động lực to lớn của đất nước trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Các chiến sĩ xem sách tại Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam-Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” ngày 17.5.2016. Ảnh: Đ.H.T

Thông qua hoạt động đối ngoại, ngoại giao văn hoá để phổ biến và lan toả hình ảnh đất nước, văn hoá, lịch sử, con người Việt Nam- nhất là về thời đại Hồ Chí Minh, thời đại vinh quang, vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam.

“Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, ngày càng gia tăng mạnh mẽ, nhất là khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 bùng nổ. Đây là quá trình đấu tranh để phát triển, đòi hỏi vừa phải tăng cường đối thoại, hợp tác với cộng đồng quốc tế vừa phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; giữa phát triển văn hoá dân tộc, hội nhập quốc tế về văn hoá sẽ làm phong phú cho văn hoá đất nước, thúc đẩy văn hoá dân tộc phát triển”- PGS.TS Nguyễn Duy Bắc (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) nêu quan điểm.

Toàn cầu hoá đe doạ xoá bỏ sự khác biệt

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, chúng ta có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam. Chúng ta có điều kiện tiếp thu, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới về văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, các kinh nghiệm của quốc tế trong quản lý văn hoá, xã hội để phát triển bền vững đất nước.

Tuy nhiên, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng đặt văn hoá dân tộc trước những thách thức, “nguy cơ bất ổn”. Đó là khuynh hướng phổ biến các mô-típ văn hoá chung toàn cầu, có thể dẫn đến sự “đồng nhất” các giá trị văn hoá, “đồng hoá” các nền văn hoá của các dân tộc. Quá trình toàn cầu hoá có nguy cơ đe doạ xoá bỏ sự khác biệt về văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc, làm nghèo sự đa dạng của bức tranh văn hoá nhân loại.

Nguy cơ đồng nhất các hệ thống giá trị và truyền thống dẫn đến việc tự xoá bỏ ý thức dân tộc. Tổng Giám đốc UNESCO đã cảnh báo: “Xu hướng toàn cầu hoá có thể gây phương hại tới tính sáng tạo và đa dạng văn hoá của thế giới, tạo ra sự đồng nhất nghèo nàn về văn hoá”.

Nhiều học giả, nhà nghiên cứu uy tín chỉ ra rằng, giá trị văn hoá quốc gia sẽ trở thành sức mạnh mềm phổ quát, khi thúc đẩy các giá trị và lợi ích chung mà các quốc gia, dân tộc cùng chia sẻ. Từ đó cho thấy phát triển văn hoá dân tộc không chỉ là bảo tồn những giá trị truyền thống mà còn phát huy giá trị, tinh hoa của văn hoá dân tộc ra thế giới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu “khẩn trương xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, từng bước đưa văn hoá Việt Nam đến với thế giới”.

Đồng thời, cần nhận thức sâu sắc quan điểm “bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc” để chủ động ứng phó với sự xâm lăng văn hoá, đồng hoá văn hoá có nguy cơ ngày càng thâm độc và tinh vi hơn.

Bởi, bằng tiềm lực kinh tế, quân sự, công nghệ và truyền thông hiện đại, một số thế lực cường quyền vẫn ra sức thực hiện âm mưu xâm lược, chuyển hoá chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá ở những quốc gia, dân tộc khác bằng “quyền lực mềm”, khi việc sử dụng “quyền lực cứng” không thành công như họ mong đợi.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự hội tụ giữa vật lý, công nghệ thông tin, công nghệ số và công nghệ sinh học mang tới cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung- trong đó có Việt Nam. Đây là cơ hội để nước ta nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của các ngành, nghề truyền thống cũng như việc tiếp cận thị trường thế giới trên nền tảng số.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định “phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hoá” và “khẩn trương khai thác, phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá, dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.

Tuy nhiên, cần nhận thấy mặt trái của công nghệ, những thay đổi về cách thức giao tiếp, thông tin và văn hoá trên internet đặt con người và văn hoá xã hội vào những nguy hiểm, bất trắc. Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong các lĩnh vực an ninh mạng, an ninh văn hoá, con người, an ninh phi truyền thống, quyền sở hữu trí tuệ, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...

Các phương tiện truyền thông xã hội, mạng viễn thông, internet tạo thuận lợi cho giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ thể chế chính trị, an ninh quốc gia, văn hoá, con người...

Mặt trái của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 còn có thể gây ra sự bất bình đẳng về văn hoá, xã hội. Nó có thể phá vỡ thị trường lao động truyền thống, làm gia tăng mức chênh lệch về cơ hội tiếp cận công nghệ và phúc lợi xã hội về văn hoá của các nhóm dân cư.

Nó có thể làm gia tăng sự xâm nhập của các hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá, phi nhân tính, không phù hợp với nền tảng tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cần gia tăng sức đề kháng và sự chủ động ứng phó, kiểm soát.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, nguồn lực văn hoá đang được nhiều quốc gia coi là một “sức mạnh mềm” quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị trí, vai trò trên trường quốc tế.

Các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam đã trở thành cội rễ của sức mạnh mềm văn hoá dân tộc, là sức mạnh nội sinh, nguồn lực và động lực to lớn của đất nước trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đặt văn hoá dân tộc trước những thách thức, nguy cơ bất ổn, có thể dẫn đến sự “đồng nhất” các giá trị văn hoá, “đồng hoá” nền văn hoá của các dân tộc. Quá trình toàn cầu hoá có nguy cơ đe doạ xoá bỏ sự khác biệt về văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc, làm nghèo sự đa dạng của bức tranh văn hoá nhân loại. Nguy cơ đồng nhất các hệ thống giá trị và truyền thống dẫn đến việc tự xoá bỏ ý thức dân tộc.

Những việc phải làm

Để hội nhập quốc tế về văn hoá, phát huy sức mạnh mềm văn hoá Việt Nam, từng bước đưa văn hoá Việt Nam đến với thế giới, như tinh thần Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra, cần giải quyết tốt một số vấn đề cốt yếu.

Trước hết, chú trọng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá dân  tộc. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII xác định “di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá”.

Cần đặc biệt coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, văn hoá truyền thống (bác học và dân gian) đã được cha ông ta sáng tạo và gìn giữ qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Sáng tạo ra nhiều sản phẩm văn hoá mới có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao trên nền tảng văn hoá, phong cách Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để tiếp tục gia tăng thêm sức mạnh mềm văn hoá Việt Nam, lan toả văn hoá Việt Nam ra thế giới.

Đồng thời, kiên quyết phê bình, đấu tranh với những sản phẩm phản văn hoá, mất gốc, sùng ngoại, nhân danh đổi mới, hội nhập quốc tế; song song đó, chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân đối với văn hoá phẩm ngoại lai, độc hại.

Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và ngoại giao văn hoá, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá cũng cần được chú trọng đúng mức. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hoá quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá quốc tế phù hợp với Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên trước văn hoá phẩm ngoại lai độc hại”.

Công tác đối ngoại và ngoại giao văn hoá không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành ngoại giao, ngành văn hoá mà là nhiệm vụ của tất cả các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, của tất cả tổ chức và cá nhân trong nước, cơ quan đại diện và người Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua hoạt động đối ngoại, ngoại giao văn hoá để phổ biến và lan toả hình ảnh đất nước, văn hoá, lịch sử, con người Việt Nam- nhất là về thời đại Hồ Chí Minh, thời đại vinh quang, vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam. Điều này giúp các nước, tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới hiểu biết, yêu mến, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ Việt Nam phát triển.

Tập trung đầu tư phát triển mạnh ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá. Theo UNESCO, “công nghiệp văn hoá xuất hiện khi các hàng hoá và dịch vụ văn hoá được sản xuất và tái sản xuất, được lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại, tức trên quy mô lớn”. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hoá trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá và quảng bá sức mạnh mềm quốc gia.

Việt Đông

(còn tiếp)