Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Nhiệt liệt chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Tây Ninh
Nhiệt liệt chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Tây Ninh
Băn khoăn làng nghề truyền thống. Kỳ 3: Đúc gang “sống được”, mây tre “èo uột”
Thứ hai: 03:57 ngày 18/03/2013

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - Đã nhiều năm nay, làng nghề mây tre ở ấp Long Kim (xã Long Thành Trung, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh) vẫn cứ bấp bênh mà chưa có tín hiệu nào cho thấy “tương lai tươi sáng”.

Kỳ 1: Hắt hiu làng nghề chằm nón lá Ninh Sơn

Kỳ 2: Làng rèn Lộc Trác: hiện đại “hại” thủ công

Đã nhiều năm nay, làng nghề mây tre ở ấp Long Kim (xã Long Thành Trung, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh) vẫn cứ bấp bênh mà chưa có tín hiệu nào cho thấy “tương lai tươi sáng”.

Ông Lập: “Nhiều thế hệ chúng tôi đã sống nhờ nghề đúc gang”

(BTN) - Trong Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2009 – 2015, định hướng đến năm 2020 được UBND tỉnh ban hành năm 2009 (theo Quyết định số 26/2009/QĐ-UBND), mục những làng nghề và nghề truyền thống tỉnh Tây Ninh có ghi nghề đúc gang ở ấp Trường Thọ được hình thành từ khá lâu đời “nhưng có xu thế bị mai một”. Thế nhưng, khi tiếp xúc với những người đã hàng chục năm làm nghề này, phóng viên được cho biết những người làm nghề đúc gang ở địa phương này, hầu hết đều sống được, có một số khá giả. Trong khi đó, đã nhiều năm nay, làng nghề mây tre ở ấp Long Kim (xã Long Thành Trung, huyện Hoà Thành) vẫn cứ bấp bênh mà chưa có tín hiệu nào cho thấy “tương lai tươi sáng”.

NGHỀ ĐÚC GANG – LIỆU ĐÃ MAI MỘT

Ấp Trường Thọ (xã Trường Hoà, huyện Hoà Thành) có chưa đến mười hộ làm nghề đúc gang. Theo ông Trần Thành Lập, 65 tuổi, chủ một cơ sở đúc gang có quy mô khá lớn ở Trường Thọ thì “cụm lò gang” ở đây hình thành ít nhất cũng đã hơn 60 năm, hiện có khoảng 8 lò đúc gang thủ công đang hoạt động. Những chủ lò ở đây có mối quan hệ họ hàng với nhau, cùng có “gốc” là người xứ Biên Hoà (Đồng Nai) di cư vào đây sinh sống từ trước năm 1975. Cũng theo ông Lập, trước giải phóng, ở đây chỉ có 5, 6 lò đúc gang thôi, sau đó có thêm vài lò mới. Tuy nhiên, theo thời gian, cũng đã có vài lò đóng cửa vì hoạt động không hiệu quả, còn lại thì… tạm “sống được”.

Từ khi vào định cư ở Trường Thọ, hầu hết các cơ sở đúc gang đều sản xuất sản phẩm chính là nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và một số chi tiết, phụ kiện dùng trong thiết bị chế biến nông sản. Trải qua hàng chục năm, nhu cầu về nông cụ có thay đổi về loại hình, kiểu dáng nhưng định hướng sản xuất của hầu hết các lò đúc gang vẫn là cung cấp nông cụ theo hướng phục vụ cơ giới hoá. Cụ thể, đó là những phụ kiện dùng trong mô tơ bơm nước, máy bơm, máy cày (trong dàn cày)… Trong các lò đúc gang này, lò của ông Lập có xu hướng phát triển mạnh hơn nhờ “tên tuổi” đã được định hình qua hàng chục năm nên sản xuất nhiều chi tiết, linh kiện quan trọng, khá đắt giá cho các lò gạch Hoffman, các nhà máy chế biến đường, các nhà máy mì, nhà máy chế biến mủ cao su và phụ tùng xe máy… Anh Trần Văn Chi, con trai ông Lập, hiện là người trực tiếp phụ trách hoạt động kinh doanh của cơ sở này cho biết: “Nếu chỉ sản xuất phụ kiện cho máy cơ giới phục vụ nông nghiệp thì chỉ có thể đủ sống chứ khó mà khá được. Trong khi đó, nhiều chi tiết, phụ kiện của máy móc, thiết bị chế biến nông sản ở các nhà máy lớn, các lò gạch công nghệ mới bắt buộc phải là sản phẩm bằng gang. Do bắt nhịp được nhu cầu này, đồng thời nhờ có uy tín của cơ sở đúc gang từ thời ông nội để lại, nên tôi đã mở rộng chủng loại sản phẩm để cung ứng cho các nhà máy. Nếu phải mua cùng 1 chi tiết, phụ kiện máy móc phục vụ chế biến nông sản ở nơi khác hoặc nhập về, chi phí cao gấp nhiều lần khi đặt hàng đúc tại cơ sở của tôi nhưng chất lượng thì không mấy khác”. Hiện ông Lập đã sắm ô tô, nhà cửa khang trang, cơ sở có nhiều máy móc hỗ trợ gia công sản phẩm sau công nghệ đúc thô thủ công. Cơ sở này cũng tạo việc làm cho khoảng 20 lao động thường xuyên với mức thu nhập bình quân khoảng 4 triệu đồng/tháng.

Chủ một cơ sở đúc gang khác là ông Lê Hồng Diệp, 53 tuổi, cũng đã theo nghề “gia truyền” này từ khi còn bé cho biết vài năm gần đây, sản phẩm gang đúc thủ công của các lò ở Trường Thọ phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm công nghiệp được đưa từ các tỉnh khác vào. Do đó, mỗi lò hầu như chỉ chuyên đúc sản phẩm thế mạnh của mình mới tồn tại. Cơ sở này có 5 nhân công, thu nhập khoảng hơn 3 triệu đồng/tháng. “Tuy nhiên, nghề đúc gang không như nghề làm gạch, ngày nào cũng làm và thường xuyên đốt lò. Bình quân, mỗi lò gang ở đây chỉ nấu tối đa 3, 4 ngày mỗi tháng. Vì nấu xong mỗi đợt phải nghỉ vài ngày để làm khuôn…”. Vài năm gần đây, cơ sở nhỏ này bình quân mỗi năm cũng kiếm được khoảng 80 triệu đồng sau khi trừ chi phí.

Điều băn khoăn đối với các lò đúc gang ở Trường Thọ là vấn đề môi trường. Vì cho đến nay, chưa có lò gang nào thực hiện các thủ tục theo quy định về bảo vệ môi trường. Dù đây là ngành không xả nước thải gây ô nhiễm môi trường, nhưng quá trình hoạt động, các lò đã gây bụi, khói làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Mặt khác, nguyên liệu để đúc gang là phế liệu từ linh kiện, phụ tùng máy móc bằng gang đã làm ô nhiễm môi trường bởi hoá chất độc hại còn sót lại như dầu, nhớt cặn… Ông Lập cho biết, trong thời gian qua, ông đã cố gắng che chắn, lắp đặt thiết bị xử lý khói, bụi để không gây ô nhiễm môi trường và hiện đang hoàn chỉnh hệ thống này. Đây cũng là cơ sở có nhiều cố gắng trong việc hạn chế gây ô nhiễm môi trường ở cụm lò đúc gang Trường Thọ. “Tôi đã có hướng sau này sẽ chuyển sang sử dụng lò đúc chạy điện cho sạch thay cho lò than đá hiện tại nhưng chi phí cao quá, tới hơn 1 tỷ đồng”, anh Chi nói.

Sản phẩm ở làng mây tre Long Kim

NGHỀ MÂY TRE LONG KIM -  “BÌNH MỚI, RƯỢU CŨ”

Sau hơn 3 năm, người viết trở lại làng mây tre Long Kim (xã Long Thành Trung, Hoà Thành) và ghi nhận… không có gì khác trước. Có khác chăng, hơn 3 năm trước, khu vực này tồn tại Hợp tác xã (HTX) mây tre số 1, còn hiện nay là HTX tiểu thủ công nghiệp mây tre Long Thành Trung thay cho HTX số 1 đã giải thể hơn 2 năm trước vì hoạt động không hiệu quả. Tuy nhiên, việc thay đổi HTX cũng chỉ là “bình mới, rượu cũ”. Và nội dung câu chuyện giữa phóng viên với ông chủ nhiệm HTX mới cũng vẫn xoay quanh thực trạng èo uột của các xã viên, là những khó khăn chưa được tháo gỡ để HTX có cơ hội phát triển, là sự mơ hồ về định hướng tương lai… giống như những gì tôi đã được nghe từ hơn 3 năm trước.

Ông Hồ Ngọc Quới, Chủ nhiệm HTX tiểu thủ công nghiệp mây tre Long Thành Trung cho biết, HTX được thành lập đã hơn 2 năm nay với khoảng 100 xã viên ban đầu. Đến nay, số xã viên “trên giấy tờ” còn khoảng 90 người tại 25 hộ. Tuy nhiên, thực tế có chừng 15 hộ hoạt động tương đối thường xuyên, còn 10 hộ thì hoạt động cầm chừng. “Các hộ hoạt động thường xuyên là do có mối đặt hàng làm các sản phẩm bán trong nước. Tuy nhiên, chủ yếu các hộ này lấy công làm lời, chứ sản phẩm nội địa cho thu nhập thấp. Các hộ còn lại chỉ hoạt động khi có mối đặt hàng xuất khẩu mà thôi. Những khi không có hợp đồng đặt hàng, nhiều người đi làm thợ hồ, buôn bán hoặc làm việc khác để mưu sinh”, ông Quới cho biết.

Cái khó khăn chính của HTX vẫn là thiếu đơn đặt hàng. Theo ông Quới, nguyên nhân chính không phải là do sản phẩm thiếu sức cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã mà là do… thiếu cơ sở vật chất, thiếu quy trình sản xuất chuyên nghiệp và thiếu vốn. Cụ thể, cho đến nay, HTX tiểu thủ công nghiệp mây tre Long Thành Trung vẫn chưa có được văn phòng làm việc để làm nơi giao dịch, giới thiệu sản phẩm… HTX cũng thiếu xưởng sản xuất tập trung, thiếu nhà kho chứa nguyên liệu và hàng hoá. “Một số đối tác đến đây tìm hiểu để đặt hàng nhưng sau đó lại quay sang giao dịch với hai doanh nghiệp tư nhân cũng ở đây. Lý do là vì họ có “bộ mặt” khang trang, có cơ sở bề thế, hàng hoá họ sản xuất theo từng công đoạn nên mang tính chuyên nghiệp, chất lượng đồng đều. Còn sản phẩm của các xã viên HTX chúng tôi tuy cùng loại nhưng mỗi người làm mỗi khác ở ngay tại nhà họ, đối tác không chuộng”, ông Quới chia sẻ.

Tôi hỏi ông chủ nhiệm HTX về định hướng phát triển của HTX, ông cho biết với thực lực và điều kiện như hiện nay thì khó mà phát triển nổi. “Giá như có nhà kho, có thêm vốn, chúng tôi có thể tích trữ nguyên liệu trong mùa rẻ để sản xuất. Còn thời gian qua, giá thành sản phẩm phụ thuộc vào giá nguyên liệu. Hễ có đơn đặt hàng là giá nguyên liệu lại tăng cao, làm giảm lợi nhuận của xã viên”, ông Quới cho biết. Thực chất, HTX này chưa từng giao dịch trực tiếp với đối tác nước ngoài mà phải qua trung gian, cho nên chủ yếu cũng chỉ là làm gia công cho các doanh nghiệp trung gian.

Mỗi năm, HTX lại chờ đối tác đến đặt hàng thì mới đồng loạt sản xuất. Căn cứ vào sản lượng đặt hàng mà HTX phân chia đồng đều cho xã viên sản xuất. Có năm, xã viên sản xuất được 7, 8 tháng. Cũng có năm họ chỉ làm được vài tháng. Thỉnh thoảng, cũng có khách từ TP. Hồ Chí Minh lên đặt vài trăm sản phẩm là hàng mỹ nghệ, hàng trang trí nội thất. Tuy nhiên, đã hơn 3 tháng nay, nhiều xã viên phải “treo” máy móc, dụng cụ làm hàng mây tre vì HTX “ế khách”. Tính bình quân, mỗi tháng một xã viên thu nhập từ 2,5 đến 3,5 triệu đồng, “tương đương tiền công đi làm thuê”. Ông chủ nhiệm HTX cũng không khá hơn. Để có thu nhập trang trải nhu cầu chi tiêu trong gia đình, vợ ông Quới phải nhận may gia công cho một cơ sở. “Không biết năm nay sẽ như thế nào?”, ông Quới trăn trở.

DU THI

(còn tiếp)

 

Từ khóa:
Báo Tây Ninh
Tin cùng chuyên mục