HTML clipboard
>>
Bất cập ở các trạm cung cấp nước sạch nông thôn (kỳ 1)
Nhiều trạm chưa phát huy hết
tác dụng
|
Các hộ dân Kà Ốt
được lắp đặt đường ống dẫn nước đến tận nhà, nhưng sử dụng nước quá
ít |
Ngoài một số
trạm cung cấp nước sạch nông thôn sử dụng lâu ngày bị hư hỏng nặng không có kinh
phí sửa chữa phải hoạt động cầm chừng hoặc ngưng hoạt động hoàn toàn, thực tế
còn có không ít trạm đang vận hành nhưng chưa hoạt động hết công suất thiết kế
do không có nhiều hộ đăng ký sử dụng nước từ trạm cung cấp.
Cụ thể như ở
xã Chà Là, huyện Dương Minh Châu. Năm 2007, Chương trình mục tiêu quốc gia về
Nước sạch và vệ sinh môi trường đầu tư hơn 1 tỷ đồng xây dựng trạm cung cấp nước
sạch ở ấp Ninh Hưng 1 thuộc xã Chà Là để phục vụ nhân dân các ấp Ninh Hưng 1,
Ninh Hưng 2 và khu vực chợ xã. Theo thiết kế, trạm Ninh Hưng 1 có khả năng cung
cấp nước sạch cho 350 hộ dân. Thế nhưng sau khi xây dựng xong đưa vào hoạt động
thì chỉ có khoảng 70 hộ đăng ký sử dụng nước do trạm cung cấp. Với số hộ sử dụng
quá ít so với thiết kế làm cho hiệu quả xã hội của chương trình bị hạn chế, số
tiền thu từ các hộ dùng nước không đủ bù các khoản chi vận hành, cho nên xã phải
điều tiết ngân sách xã để cân đối nhằm đảm bảo cho trạm hoạt động thường xuyên.
Từ năm 2009 đến nay xã Chà Là tích cực vận động các hộ trong khu vực trạm Ninh
Hưng 1 sử dụng nước sạch nên số hộ tham gia có tăng, nhưng cũng chỉ được có 117
hộ đạt khoảng 1/3 số hộ so thiết kế nên vẫn còn lãng phí công suất đầu tư. Ngoài
trạm Ninh Hưng 1, năm 2009 xã Chà Là tiếp tục được đầu tư 1,2 tỷ đồng xây dựng
thêm trạm cung cấp nước sạch ở ấp Láng từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc
gia về Nước sạch và vệ sinh môi trường, cũng với thiết kế cung cấp nước sinh
hoạt cho 350 hộ dân. Đầu năm 2010, trạm ấp Láng đưa vào hoạt động nhưng chỉ có
40 hộ đăng ký sử dụng nước, chỉ hơn 10% tổng số hộ theo thiết kế. Hiện trạm ấp
Láng cũng đang trong tình trạng tiền thu không đủ trang trải các khoản chi vận
hành trạm.
Đáng chú ý, ở
xã Tân Hiệp thuộc huyện Tân Châu được đầu tư kinh phí hơn 2,5 tỷ đồng để xây
dựng trạm cung cấp nước sạch ở ấp Thạnh Phú với công suất bơm là 10 mét khối/giờ
và khả năng cung cấp nước sạch cho hơn 300 hộ dân trong khu vực. Ông Châu Văn
Nhạn- Tổ trưởng tổ 11, ấp Thạnh Phú cho biết, trạm đã được xây dựng hoàn chỉnh
và đường ống chính đã được lắp đặt cách nay hơn 1 năm, nhưng đến nay trạm vẫn
chưa hoạt động. Theo lãnh đạo xã Tân Hiệp thì trạm không hoạt động được là do có
trục trặc về khâu lắp đặt, đấu nối đường điện vào trạm. Tuy nhiên theo Tổ trưởng
tổ dân phố thì trạm chưa hoạt động được một phần là do số hộ đăng ký sử dụng quá
ít- đến nay chỉ mới có 18 hộ đăng ký sử dụng nước sạch do trạm cung cấp, trong
khi công suất thiết kế của trạm là cung cấp nước sạch cho hơn 300 hộ sử dụng.
|
Trạm cung cấp
nước sạch Tân Hiệp hoàn thành hơn 1 năm nhưng chưa đưa vào hoạt động |
Thực ra, cũng
có trạm cung cấp nước sạch có số lượng hộ đăng ký sử dụng nước sạch khá nhiều,
nhưng số lượng nước tiêu thụ lại quá ít cũng gây lãng phí công suất đầu tư. Ấp
Kà Ốt thuộc huyện Tân Châu là ấp biên giới có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh
sống và rất khó khăn về nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Từ năm 2004, Kà Ốt
được Nhà nước đầu tư xây dựng trạm cung cấp nước sạch với kinh phí khoảng 1,2 tỷ
đồng, bao gồm cả kinh phí lắp đặt đường ống đến tận từng hộ dân. Sau khi trạm
hoạt động, có hơn 100 hộ dân trong ấp có nước sạch từ trạm cung cấp để sử dụng.
Thế nhưng theo anh Ngất Ruôn- người quản lý vận hành trạm cho biết, mỗi tháng
hơn 100 hộ dân chỉ sử dụng có khoảng 350 mét khối, bình quân mỗi hộ chỉ sử dụng
có 3,5 mét khối mỗi tháng. Một người dân ấp Kà Ốt cho biết sở dĩ bà con nơi đây
ít sử dụng nước sạch từ trạm cung cấp là do nhiều nhà đã có giếng khoan hoặc
giếng đào nên họ chỉ sử dụng nước sạch của trạm vào việc ăn uống, còn tắm giặt
và các sinh hoạt khác thì sử dụng nước giếng. Với khối lượng nước sử dụng thấp
như vậy, không chỉ lãng phí công suất đầu tư mà còn gây khó khăn thường xuyên
trong công tác quản lý, vận hành trạm. Bởi vì mỗi tháng, Trạm cung cấp nước sạch
ấp Kà Ốt chỉ thu tiền sử dụng nước được có khoảng 700.000 đồng, trả tiền điện
khoảng 300.000 đồng, còn lại khoảng 400.000 đồng không đủ trả lương cho người
quản lý thì lấy đâu ra để trang trải chi phí vận hành.
Nguyên nhân
khiến cho một số trạm cung cấp nước sạch nông thôn có quá ít người đăng ký sử
dụng là ở nơi đó người dân có thể tự khoan giếng tìm nguồn nước hợp vệ sinh. Khi
trạm cung cấp nước sạch xây dựng thì trong khu vực thiết kế cung cấp nước của
trạm đã có nhiều hộ có giếng khoan và đặt máy bơm lấy nước sinh hoạt. Từ đó có
không ít hộ không muốn bỏ thêm ra một số tiền nữa để lắp đặt đường ống từ đường
ống chính của trạm vào nhà (ở Trạm cung cấp nước sạch Tân Hiệp hộ đăng ký sử
dụng nước trạm chỉ đóng có 423.000 đồng). Đây là một trong những bất cập khiến
cho một số trạm cung cấp nước sạch nông thôn tuy đang hoạt động nhưng không phát
huy hết tác dụng.
Có người cho
rằng nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng lãng phí công suất ở một số trạm cung
cấp nước sạch là do khâu khảo sát chọn địa điểm xây dựng trạm chưa chính xác. Từ
đó mà có một số trạm cung cấp nước sạch được đầu tư xây dựng ở những nơi mà nhu
cầu nước sạch chưa thực sự bức xúc, bởi vì trong khu vực đó đã có nhiều hộ dân
tự tìm được nguồn nước hợp vệ sinh để sử dụng…
SƠN TRẦN
(Còn tiếp)