Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Trong các câu chuyện truyền tụng của dân gian Nam bộ có chuyện về những ngôi chùa có tượng bằng đất sét. Thời lưu dân mới đến mở đất lập làng, có gì tiện cho bằng đất sét khi cần tạo nên một biểu tượng thờ. Ở Tây Ninh cũng có mấy ngôi chùa có chuyện truyền miệng kể lại thời khai sơn tạo tự.

|
Mặt tiền chùa Tịnh Lý.
Như chùa Phước Lưu, di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh nằm trên đường Xuyên Á, giữa trung tâm thị trấn Trảng Bàng. Chuyện rằng thoạt đầu giữa mênh mang trảng cỏ bàng, trẻ chăn trâu dựng lều che mưa nắng. Rồi khi gặp vũng nước trâu uống có loại đất sét dẻo, chúng bèn nắn ra những pho tượng các vị thánh thần nổi tiếng để bày ra thờ cúng, xem như một trò chơi. Gặp lúc có hai bà sùng kính Phật đi qua, các bà mới bày vẽ thêm cho đám trẻ về cách thức cúng kiếng sao cho phải lẽ.
Một vài câu dạy của hai bà còn được truyền tụng đến ngày nay như câu: “Cúng chuối chà là bà Phật/ Cúng chuối sứ là hứ Phật/ Cúng chuối cơm là thơm Phật”.
Từ đấy, cư dân Trảng Bàng có lệ chọn chuối cơm để cúng. Nơi các bà dạy trẻ em trong chiếc lều coi trâu nay đã mọc lên chùa. Là Phước Lưu cổ tự, đứng dưới bóng những cây dầu cổ thụ vươn cao kiêu hãnh dưới trời xanh.
Chùa Tịnh Lý ở ấp An Khương, xã An Tịnh, Trảng Bàng cũng có một chuyện truyền tụng tương tự, được sách Tiểu sử làng An Tịnh của ông Nguyễn Ngọc An chép lại. Đấy là: “giữa trảng ruộng bàu Đắng có một cái bàu và kế bên một cụm rừng cây lớn nhiều vẻ u huyền.
Thường ngày bọn chăn trâu ưa nghỉ mát tại đó hoặc cho trâu uống nước trong bàu. Đám chăn trâu mỗi ngày tụ tập nơi đây thấy nhơn dân thường đến cúng vái nơi bóng cây để trả lễ cho Bà Cậu… Chúng bày ra đứa đem tre, đứa cho cây dựng một cái miễu nhỏ. Chúng lặn xuống bàu móc đất sét nắn hình Phật thật nhiều đem phơi khô xong tuyển chọn tượng tốt còn nguyên đem xuống bàu vái rằng: “Linh thì nổi, không linh thì chìm”. Rồi chúng bỏ hết xuống nước. Phần lớn chìm hết, còn 5 hay 6 cái nổi phình mặc dầu bị nước thấm ướt như những cái khác. Bọn chăn trâu rất tôn kính tượng còn nổi, vớt lên đem về miễu để trên bàn thờ. Tiếng đồn loan ra, lần lần dân chúng lối xóm đến cúng kiến vái van cầu nguyện thấy có linh hiển. Họ gọi miễu ấy là chùa Bàu Đắng, Thiện nam tín nữ tăng càng ngày càng đông vào ngày vía hay rằm…”.
Đấy là nguyên văn sự tích ra đời chùa Bàu Đắng, nay là Tịnh Lý. Theo sư Thích Thiện Viên, trụ trì chùa hiện nay thì cái bàu Đắng năm xưa nay đã lọt vào giữa khu công nghiệp Linh Trung III cách chùa nay chừng hơn cây số. Thầy trụ trì cũng không biết rõ năm trẻ trâu nắn tượng, lập ngôi miễu tiền thân chùa Bàu Đắng là vào khoảng thời gian nào.
Chỉ biết trong những tượng đang thờ tự tại chùa thì có một bộ ba tam thế Phật bằng sứ Thái Lan có từ thời vua Thiệu Trị (1840-1847). Và sau đấy như chúng ta đã biết, chùa chuyển về giữa ấp An Khương từ năm 1902. Đấy là do: “Quan chủ quận trấn tại Trảng Bàng là tri huyện Nguyễn Vạng Bửu, người gốc làng An Tịnh, nhân đi xem đắp đường ngang qua đó thấy chùa thấp nên cho mời mấy người trong xóm phụ với ông cất một cái chùa lớn mé trên Bàu Đắng. Hương cả Hồ Văn Chư, hương trưởng Nguyễn Văn Định góp công của vào đốc xuất nhơn công hoàn thành việc xây cất…” (sách đã dẫn).
Đến năm 1964, chùa bị sập nên phải dỡ ra, xin cây ở đình làng cất lại ngôi nhỏ hơn làm nơi thờ cúng Phật. Năm 2007 thầy Thiện Viên về tiếp quản chùa thấy cột cây bị mối mọt xâm hại làm cho xập xệ, ngói âm dương rệu rã. Thế là lại phải xin phép xây sửa lại toàn bộ. Năm 2012 chùa mới được hoàn thành. Bên thềm chùa mới vẫn còn những tán đá chân cột từng có trên trăm năm cõng ngôi chùa cũ, như vẫn quyến luyến cái thời mộc mạc hồn nhiên tranh lá.
Có lẽ vì thế chăng mà Tịnh Lý bây giờ đã trở thành ngôi chùa còn giữ được nhiều nhất các đường nét kiến trúc xưa ông bà tạo dựng và để lại. Trong khi các ngôi Phước Thành và Tịnh Thành đều đã được xây mới với lầu cao vàng son rực rỡ; thậm chí du nhập cả những chi tiết kiến trúc tận xứ Sing hay xứ Đài thì Tịnh Lý vẫn còn đôi mái bánh ít nôm na dân dã chở che cho chùa hai lớp trước, sau.
Lớp trước là ngôi chính điện 7x14 mét cấu trúc ba gian ba nhịp làm thành bộ khung “tứ trụ”. Giữa những tường cột gạch xây, bê tông sao vẫn còn đây một đôi cột gỗ đứng ngay trước gian thờ, mà các chùa thường gọi là gian “đại hùng bửu điện”. Lớp nhà sau 7x11,5 mét mới là gian hậu tổ và nhà khách.
Thú vị nhất là hành lang bọc ba bên, rộng tới 2,5 mét làm cho chùa luôn mát mẻ nhờ gió trời thả sức dạo quanh. Ngước lên bàn thờ “đại hùng”, vẫn thấy các pho tượng thoạt trông giống như ở nhiều ngôi chùa khác. Nghĩa là đã được tân trang vàng son óng ánh. Ra ngoài vuông sân phía trước cũng tràn trề hoa kiểng tốt tươi.
Trong một ngôi miễu nhỏ, bỗng thấy một pho tượng lạ mắt, có vẻ xù xì thô tháp. Tượng thần, Phật chi mà có tới sáu tay với lại ba đầu. Dòng chữ phía sau ghi là nam mô Ba Đầu Ma Thắng Phật. Sực nhớ lại một câu trẻ con xưa hay thuộc. Đấy là câu chúng dùng để doạ nhau: ba đầu, sáu tay, mười hai con mắt. Hay là đây cũng là một sản phẩm của trẻ em tự hồi còn nắn tượng miễu Bàu Đắng bằng đất sét? Xin xem xét kỹ hơn rồi sẽ trả lời sau!
TRẦN VŨ