Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đảng
Còn nhiều nội dung cần làm rõ
2017-06-14 02:25:01

Trước đây, Báo Tây Ninh có bài viết phản ánh trường hợp người bị hại trong một vụ án hiếp dâm có hai tên trong hai giấy khai sinh khác nhau nên quá trình truy tố, xét xử có nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến bản án của TAND tỉnh bị tuyên huỷ, trả hồ sơ để cấp sơ thẩm tiếp tục điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Mới đây, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh ký bản cáo trạng truy tố bị can Đặng Thanh Tuấn ra trước TAND tỉnh với tội danh “Hiếp dâm trẻ em” theo Điều 112 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Phạm tội vì “yêu” trẻ em

Nội dung cáo trạng cho biết, ngày 26.6.2015, Đặng Thanh Tuấn (sinh ngày 25.5.1999) và cháu T (sinh ngày 6.11.2002 - nhằm ngày 2.10.2002 AL), ngụ cùng ấp Ninh Phú, xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu làm quen và thương yêu nhau. Trong thời gian từ 25.7.2015 đến ngày 7.11.2015, Tuấn đã 6 lần thực hiện hành vi giao cấu với T (trong đó có 5 lần Tuấn giao cấu với T khi T chưa đủ 13 tuổi). Lần cuối cùng (vào ngày 7.11.2015), bị hại T đã hơn 13 tuổi, trong khi bị can Tuấn chưa đủ 18 tuổi nên không cấu thành tội “Giao cấu với trẻ em” theo Điều 115 BLHS. Ngày 9.11.2015, mẹ bị hại T là chị L.H.T tố cáo hành vi của Tuấn. Ngày 10.11.2015, Tuấn bị bắt khẩn cấp và trong quá trình điều tra, Tuấn thừa nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Ngày 10.11.2015, Trung tâm Pháp y Tây Ninh có bản kết luận giám định pháp y về tình dục. Đến ngày 21.3.2017, Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại TP.Hồ Chí Minh có bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi với nội dung: thời điểm giám định (ngày 22.2.2017), T có độ tuổi từ 14 năm 4 tháng đến 14 năm 10 tháng.

Về nhân thân của bị hại T, cáo trạng xác định: Vào cuối năm 2001, chị L.H.T phụ bán quán cà phê ở xã Trường Hoà (Hoà Thành) có giao cấu nhiều lần với anh N.T.P (sinh ngày 5.2.1979, ngụ ấp Trường Xuân, xã Trường Hoà, huyện Hoà Thành). Sau đó, chị L.H.T có thai và sinh cháu T vào ngày 6.11.2002 (nhằm ngày 2.10.2002 AL) tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh.

Người đưa chị L.H.T đến bệnh viện để sinh cháu T là ông L.H.H (cha chị L.H.T). Thời điểm này, chị L.H.T mới 13 tuổi nên ông L.H.H lấy tên em gái ông là L.T.H để khai với nhân viên y tế, nhưng lại ghi sai thành L.K.H. Gia đình ông L.H.H lúc này quá khó khăn, không có tiền đóng viện phí nên bỏ trốn, không lấy giấy chứng sinh. Giấy chứng sinh của bị hại T vẫn còn lưu giữ tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Cơ quan điều tra đã thu giữ giấy chứng sinh này của cháu T trong quá trình điều tra vụ án. Đối với em gái ông L.H.H là chị L.T.H, từ khi có chồng, chị bị bệnh phụ nữ, đến nay xác định không có khả năng sinh con.

Sau khi chị L.H.T sinh cháu T, ông L.H.H đã cho ông Phạm Văn Hon nuôi cháu T. Ông Hon tự đăng ký khai sinh cho cháu T và lấy tên khác là N.T.T. L (sinh ngày 20.1.2004 với tên cha là Nguyễn Thành Long, tên mẹ là Trương Thị Kim Thoa - con ông Hon). Nếu áp dụng giấy khai sinh này, tính đến ngày bị Tuấn giao cấu, bị hại T mới 11 tuổi, là độ tuổi thấp hơn rất nhiều so với tuổi thật của T. Đến năm 2007, chị L.H.T đưa cháu T về nuôi và đăng ký khai sinh cho con mình là T (sinh ngày 2.10.2002 AL). Tại bản kết luận giám định pháp y về ADN ngày 11.5.2017, L.H.T là người mẹ sinh học của T.

Từ những chứng cứ trên, VKSND tỉnh cho rằng, có đủ căn cứ khẳng định T được chị L.H.T sinh ra vào lúc 2 giờ 40 phút ngày 6.11.2002 tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Quá trình điều tra, cơ quan chức năng ghi nhận về trách nhiệm dân sự, đại diện gia đình bị cáo Tuấn đã bồi thường tổn thất tinh thần cho bị hại T số tiền 20 triệu đồng. Đại diện hợp pháp của bị hại là chị L.H.T có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho Tuấn.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, cáo trạng VKSND tỉnh kết luận: Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của trẻ em, Đặng Thanh Tuấn đã thực hiện hành vi giao cấu với T nhiều lần. Tại thời điểm Tuấn thực hiện hành vi giao cấu lần đầu tiên, T được 12 năm, 8 tháng, 19 ngày tuổi. Hành vi của Tuấn là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của T nên phải chịu trách nhiệm hình sự, VKSND tỉnh quyết định truy tố ra trước TAND tỉnh để xét xử bị can Tuấn về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS.

LUẬT SƯ KIẾN NGHỊ LÀM RÕ NHIỀU VẤN ĐỀ

Sau khi cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tây Ninh ban hành bản kết luận điều tra và VKSND tỉnh ban hành bản cáo trạng truy tố Tuấn tội “Hiếp dâm trẻ em” như đã nêu trên, ngày 24.5.2017, luật sư Nguyễn Hữu Lộc - luật sư cộng tác viên thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh, người được phân công bào chữa cho bị can Tuấn đã có văn bản kiến nghị gửi TAND tỉnh và HĐXX với nội dung như sau: “Theo Kết luận điều tra và cáo trạng của VKSND tỉnh đều cho rằng: Thứ nhất, bà L.T.H (em gái ông L.H.H, cô ruột của bị hại T) bị bệnh u nang nên không có khả năng sinh con. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ thì tôi không thấy bất kỳ giấy tờ nào thể hiện bà L.T.H bị bệnh u nang. Hồ sơ vụ án không có văn bản của cơ quan chuyên môn (cơ quan y tế) xác nhận “người bị bệnh u nang, thì không có khả năng sinh con”. Thứ hai, giấy chứng sinh mang tên sản phụ là L.K.H có trong hồ sơ là mẫu giấy (mẫu phôi giấy) không phù hợp theo quy định của pháp luật vào thời điểm cấp vào năm 2002. Bởi vì, mẫu giấy chứng sinh trên đã bị bãi bỏ theo Quyết định số 1203-QĐ/1998/TP-HT ngày 26.12.1998 của Bộ Tư pháp. Theo Quyết định số 1203-QĐ/1998/TP-HT ngày 26.12.1998, mẫu giấy chứng sinh phải sử dụng từ ngày 1.1.1999 là các biểu mẫu về khai sinh: TP/HT-1999-A.1, TP/HT-1999-A.2, TP/HT-1999-A.2.A, TP/HT-1999-A.3, TP/HT-1999-A.4”. Do đó, việc sử dụng mẫu giấy chứng sinh có trong hồ sơ vụ án (giấy chứng sinh mang tên sản phụ là L.K.H) là không phù hợp với quy định của pháp luật về việc sử dụng biểu mẫu hộ tịch mà Bộ Tư pháp quy định”.

Được biết, trước đây, khi đưa vụ án này ra xét xử sơ thẩm vào ngày 20.4.2016 tại TAND tỉnh Tây Ninh, VKSND tỉnh truy tố Tuấn tội “Hiếp dâm trẻ em” theo Khoản 4 Điều 112 BLHS. Tại toà, VKSND tỉnh đề nghị xử bị cáo Tuấn từ 10 đến 12 năm tù. Luật sư Lộc đề nghị HĐXX xem xét bị hại T có hai giấy khai sinh khai trễ hạn với độ tuổi khác nhau (kết luận điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra xác định T sinh ngày 2.10.2002, cáo trạng của VKSND xác định T sinh ngày 6.11.2002), hồ sơ hộ tịch của T không có giấy chứng sinh, trong khi đó, cha mẹ T lại khai không thống nhất việc làm giấy khai sinh của T nên đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung, giám định xương người bị hại để xác định chính xác độ tuổi. Khi xét xử cấp sơ thẩm, HĐXX tuyên bị cáo Tuấn 8 năm tù tội “Hiếp dâm trẻ em”.

Tuy nhiên, khi xét xử phúc thẩm, ngày 6.12.2016, TAND cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh đã quyết định huỷ toàn bộ Bản án số 05/2016/HSST ngày 20.4.2016 của TAND tỉnh Tây Ninh với nhận định cần làm rõ cháu T sinh ngày tháng năm nào để tính lần giao cấu đầu tiên cháu T trên 13 tuổi hay dưới 13 tuổi làm cơ sở cho việc định tội. Toà cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh cũng nhận định trong vụ án này, bản thân bị hại mang hai tên và hai giấy khai sinh khác nhau, trong khi đó, theo giấy chứng sinh của bệnh viện chứng nhận mẹ của cháu T ở Ninh Phú, Bàu Năng, Dương Minh Châu nhưng khi xác minh, chính quyền xác nhận tại địa phương không có tên người này. Do các chứng cứ mâu thuẫn nhau về tính xác thực ngày tháng năm sinh của bị hại T nên việc giám định xương của bị hại là cần thiết. TAND cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh nhận định làm rõ những nội dung trên cũng là căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Tuấn. Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ nội dung trên, chỉ căn cứ những lời khai của người biết việc, các chứng cứ mâu thuẫn nhau về ngày tháng năm sinh của bị hại để tuyên bị cáo phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” là chưa có căn cứ vững chắc.

Theo luật sư Nguyễn Hữu Lộc, cáo trạng xác định bị hại T sinh ngày  6.11.2002 - tức được 12 năm, 8 tháng, 19 ngày tuổi (theo giấy chứng sinh sản phụ L.K.H). Tuy nhiên, những chứng cứ này chưa phù hợp quy định pháp luật (như đã nêu trong kiến nghị). Vì vậy, trong trường hợp này, cơ quan tố tụng cần căn cứ Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, ngày 12.7.2011, hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Theo Kết luận điều tra, kết quả giám định xương vào tháng 2.2017, bị hại T có độ tuổi từ 14 tuổi 4 tháng đến 14 tuổi 10 tháng. Như vậy, vào thời điểm bị xâm hại, T có độ tuổi từ 12 tuổi 10 tháng đến 13 tuổi 4 tháng. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, cơ quan tố tụng phải xác định bị hại T là 13 tuổi 4 tháng (tức 14 tuổi 10 tháng vào thời điểm giám định). Nếu áp dụng theo Thông tư liên tịch nêu trên, căn cứ theo quy định pháp luật, bị cáo Tuấn sẽ không phạm tội hiếp dâm trẻ em. Luật sư Nguyễn Hữu Lộc hy vọng những nội dung trên sẽ được HĐXX làm rõ khi đưa ra xét xử tại phiên sơ thẩm.

ĐỨC TIẾN

XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA NGƯỜI BỊ HẠI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Việc xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị hại là người chưa thành niên thì tuổi của họ được xác định như sau:

1. Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh;

2. Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh;

3. Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh;

4. Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.

5. Trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại là người chưa thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.

(Trích Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH)

 

Từ khóa:
Báo Tây Ninh
Báo Tây Ninh
Tin liên quan