HTML clipboard
![Công ty CPCS Tây Ninh: Giải trình về việc xử lý ô nhiễm môi trường ở nhà máy chế biến cao su](/database/newsimg/2009/0612/giaitrinh1.jpg) |
Các hộ dân cư ngụ
ngay bên cạnh hố xử lý nước thải của CTCP Cao su Tây Ninh. |
Sau khi Báo Tây Ninh có hai
bài phản ánh ý kiến một số người dân ấp Đá Hàng, xã Hiệp Thạnh (Gò Dầu) về việc
Xí nghiệp cơ khí chế biến thuộc
Công ty cổ phần Cao su Tây Ninh xả nước thải gây ô nhiễm môi trường, phóng
viên Báo Tây Ninh đã có cuộc tiếp xúc, nghe giải trình của Ban Giám đốc CTCP Cao
su Tây Ninh, đồng thời quan sát khu vực xử lý nước thải của Xí nghiệp cơ khí chế
biến. Qua đó, chúng tôi nhận thấy không phải Công ty không tích cực giải quyết
vấn đề ô nhiễm, tuy nhiên thực tế cho thấy việc xử lý nước thải của ngành chế
biến cao su trước nay vốn không dễ dàng và hiện nay vẫn còn những điều bất cập.
Tiếp xúc với phóng viên, các
ông Trịnh Văn Vĩnh, Tổng Giám đốc, Trần Văn Rạnh, Phó Tổng Giám đốc CTCP Cao su
Tây Ninh cho biết, công ty hiện có 7.225 ha cây cao su, trong đó có hơn 6.000 ha
đang khai thác với sản lượng bình quân hằng năm trên 13.000 tấn mủ khô. Do sản
xuất, chế biến ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng sản phẩm, với nhu cầu
sử dụng nước rất lớn, do đó việc xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường là
yêu cầu phải thực hiện rất nghiêm ngặt mới có thể hạn chế tác động môi trường.
Công ty nhận thức rất rõ điều đó nên từ năm 1992 đã đầu tư xây dựng hệ thống xử
lý nước thải (XLNT) tại hai cụm nhà máy chế biến ở Bến Củi (công suất 400 m3/ngày)
và Vên Vên (thuộc địa bàn ấp Đá Hàng, công suất 1.000 m3/ngày)
theo công nghệ hồ sinh học. Sau đó do yêu cầu phát triển sản xuất, hệ thống XLNT
không còn phù hợp và bị quá tải, công ty đã tổ chức đấu thầu công trình nâng cấp
hệ thống XLNT, Công ty TNHH Glowtec Environmental VN trúng thầu thi công công
trình với giá trị trúng thầu 6 tỷ 282 triệu đồng. Cuối năm 2006 công trình hoàn
thành được nghiệm thu đưa vào sử dụng với kết quả XLNT đạt yêu cầu, nước thải
sau xử lý đều đạt tiêu chuẩn TCVN 5945-1995, cụ thể các chỉ số BOD, COD, chất lơ
lửng, đạm tổng số, ammoniac trong nước thải sau xử lý đều đạt yêu cầu theo quy
định hiện hành của Nhà nước, đã cơ bản hạn chế được vấn đề ô nhiễm môi trường.
Đồng thời hệ thống XLNT này còn có hiệu quả thu lại triệt để lượng mủ tồn đọng
trong nước thải nhờ có bể gạn mủ, bình quân mỗi tháng thu lại được khoảng 70-80
tấn mủ phế phẩm, góp phần giảm chi phí giá thành sản phẩm đáng kể.
![Công ty CPCS Tây Ninh: Giải trình về việc xử lý ô nhiễm môi trường ở nhà máy chế biến cao su](/database/newsimg/2009/0612/giaitrinh2.jpg) |
Giám đốc xí ngiệp
chế biến Lê Khắc Minh (phải) và cán bộ kỹ thuật đang lấy mẫu nước
thải sau xử lý để kiểm nghiệm |
Như thế trước nay CTCP Cao
su Tây Ninh đã đầu tư khoảng 10 tỷ đồng cho việc xử lý nước thải đem lại hiệu
quả rất tích cực, nước thải được xử lý đạt yêu cầu, nghĩa là không có tình trạng
nhà máy chế biến xả nước thải ra môi trường chưa qua xử lý.
Tuy nhiên sau 3 năm vận
hành, hệ thống XLNT của Xí nghiệp cơ khí chế biến cao su ở Vên Vên cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Cụ thể là việc xử lý bùn lắng từ nước thải chưa triệt
để, đồng thời hệ thống cũng đã bị quá tải trong việc chứa bùn. Mặt khác vấn đề
xử lý mùi đặc trưng của mủ cao su bốc lên cũng không triệt để, gây khó chịu cho
những người sống gần nơi chế biến cao su.
Sau khi nghe Ban Giám đốc
công ty và Xí nghiệp cơ khí chế biến giải trình, chúng tôi được hướng dẫn đến
quan sát trực tiếp nhà máy chế biến và hệ thống XLNT. Tại đây chúng tôi nhận
thấy hệ thống XLNT nước thải của nhà máy khá hoàn chỉnh, có cả phòng xét nghiệm
các chỉ tiêu môi trường của nước thải sau xử lý. Nước thải từ nhà máy được dẫn
qua hệ thống xử lý trước khi xả ra môi trường. Còn việc chứa bùn lắng thì quả
thật hồ chứa đã quá tải và công ty cũng đang cho mở rộng hồ chứa trong khoảng
diện tích mặt bằng còn lại rất hạn chế ở khu vực chế biến. Trong khi đó có một
số hộ dân cư ngụ ngay bên ngoài hàng rào sát hồ chứa bùn, cho nên không thể nào
tránh khỏi bị ảnh hưởng về mùi hôi đặc trưng của mủ cao su, hết sức khó chịu.
Trả lời câu hỏi của chúng
tôi về giải pháp nào để giải quyết vấn đề các hộ dân bên cạnh phải chịu đựng mùi
hôi? Ông Trịnh Văn Vĩnh, Tổng Giám đốc công ty cho biết: Do điều kiện lịch sử,
Nhà máy Cao su Vên Vên do Pháp xây dựng từ đầu thế kỷ XX nằm rất gần bờ sông Vàm
Cỏ Đông, do vậy nơi đây trước kia không phải là khu dân cư. Sau này mới có 4 hộ
dân, vốn sống trên sông nước, hành nghề đánh bắt thuỷ sản sông Vàm Cỏ Đông, lên
bờ định cư trên diện tích rất hẹp sát vòng rào nhà máy. Như thế không thể nói là
nhà máy gây ô nhiễm môi trường khu dân cư. Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề các
hộ dân bị ô nhiễm mùi hôi, công ty cố gắng khắc phục bằng cách vận động 4 hộ dân
chấp nhận “đổi đất” dời lên ở phía bắc khu vực trụ sở Công ty. Công ty sẽ cấp
đất, hỗ trợ di dời và giúp khoan giếng, kéo điện cho bà con dùng. Tuy nhiên, quá
trình thoả thuận “đổi đất” với các hộ dân cũng còn vấp phải trở ngại do bà con
tự định giá đất quá cao, rất bất hợp lý. Giải quyết được việc “đổi đất”, chẳng
những bà con thoát khỏi cảnh chịu đựng mùi hôi, mà công ty cũng có điều kiện mở
rộng diện tích để nâng cấp hệ thống XLNT bằng công nghệ mới, trong đó quan trọng
nhất là công nghệ ly tâm để xử lý triệt để ô nhiễm bằng cách làm khô bã bùn”.
![Công ty CPCS Tây Ninh: Giải trình về việc xử lý ô nhiễm môi trường ở nhà máy chế biến cao su](/database/newsimg/2009/0612/giaitrinh3.jpg) |
Hệ thống xử lý nước thải của CTCP Cao su Tây Ninh đang vận hành |
Qua buổi làm việc, chúng tôi
cảm nhận được thiện chí của CTCP Cao su Tây Ninh trong việc xử lý ô nhiễm, bảo
vệ môi trường. Mặc dù trong điều kiện rất khó khăn, cả về công nghệ xử lý và mặt
bằng khu vực chế biến, nhưng công ty cũng đã vận dụng nhiều biện pháp nhằm hạn
chế ô nhiễm, tránh gây ảnh hưởng môi trường sống. Tất nhiên việc di dời 4 hộ dân
khỏi nơi bị ảnh hưởng vẫn dễ dàng, khả thi hơn việc phải... di dời một cơ sở sản
xuất kinh doanh đang bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc của hàng ngàn gia đình
công nhân.
N.T.H