Cùng với nét kiến trúc nghệ thuật cổ kính, đình
Chèm còn mang trong mình sự tích về một vị tướng tài đức trọng có công dẹp giặc
cứu nước. Đình thờ Thượng Đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng và Hoàng phi Bạch Tĩnh
Cung sống vào thời An Dương Vương.
Chèm (có thuyết cho rằng phải viết là Trèm) là
tên nôm, tên chữ là Thuỵ Điềm, sau đổi là Thuỵ Hương, rồi lại đổi là Thuỵ
Phương. Chữ Chèm, Trèm, tiếng Việt cổ là T’lem, và khi đọc theo lối Hán hoá là
Từ Liêm, có thể coi đó là nguồn gốc tạo nên tên gọi huyện Từ Liêm ngày nay.
Làng Chèm xa xưa có người họ Lý tên Thân, hiệu
là Ông Trọng. Ông có vóc dáng khổng lồ. Thời Hùng Duệ Vương, nước ta có giặc Ái
Lao, Chiêm Thành và phía Bắc thường quấy nhiễu biên thuỳ, Lý Ông Trọng nhận chức
Chỉ huy Sứ giết tan giặc, mở mang bờ cõi.
![Đình Chèm - kiệt tác ngàn năm bên sông Hồng](http://www.baotayninh.vn/resources/newsimg/092012/012013/30/dinh%20chem.jpg) |
Đình Chèm nằm trên
diện tích gần 2 mẫu, dáng uy nghi theo thế chữ đinh với những cây
cột trụ to. Những mái cong của ngôi đình được phủ lên một lớp rêu
phong cổ kính |
Sang thời An Dương Vương, nhà Tần bị giặc Hung
Nô quấy phá, vua Tần sai sứ sang cầu Thục Phán cho tướng tài sang giúp. Vua Thục
cử Lý Ông Trọng đi sứ nhà Tần, vua Tần phong ông là Tư Lệnh Hiệu Uý thống suất
10 vạn quân đi dẹp giặc Hung Nô. Thắng trận khải hoàn, vua Tần phong ông chức
Phụ Tín Hầu, gả công chúa cho và giữ ở lại nước Tần. Nhưng Lý Thân nhất quyết về
lại quê nhà, công chúa nước Tần cũng theo về sống với ông ở Chèm cho tới khi
mất. Lý Ông Trọng trở thành Thành hoàng của làng. Trong thánh phả nước Việt, Lý
Ông Trọng đứng hàng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng.
Đình làng Chèm có lẽ là ngôi đình duy nhất ở
nước Nam ta quay hướng về phương bắc. Hình như đó là cái cách dân Chèm biểu lộ
thành ý với bà công chúa sống xa xứ nhưng rất mực yêu chồng được luôn hướng về
nơi quê cha đất tổ.
Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội
công ngoại quốc, chắc chắn và công phu, bên trong đình, các cột, mái được chạm
trổ tinh vi, bên ngoài có tam quan, có bốn cột đồng trụ. Gian trong cùng của
ngôi đình có hai bức tượng Thượng Đẳng Thiên Vương cao 2 trượng và bức tượng
công chúa nước Tần - Hoàng phi Bạch Tỉnh Cung cao 8 trượng bằng gỗ sơn son thếp
vàng tạc năm 1888.
Hiện ở Đình Chèm vẫn còn lưu giữ được nhiều
hình chạm khắc gỗ phong cách thế kỷ 18, cùng chiếc lư hương ngàn năm tuổi rất
quý hiếm. Để tưởng nhớ công lao của Lý Ông Trọng, nhân dân làng Chèm (Thuỵ
Phương); làng Hoàng (Hoàng Xá); làng Mạc (Liên Mạc) cùng lập đền thờ và lo cúng
tế từ xưa tới nay.
Điều ngạc nhiên là hầu hết các lễ hội đều tổ
chức vào mùa xuân nhưng riêng có hội làng Chèm mở giữa mùa hè. Diễn ra từ ngày
14 đến ngày 16 tháng 5 âm lịch, các nghi thức quan trọng của lễ hội đều được tổ
chức tại đình Chèm trong đó có lễ rước nước rất long trọng.
Hàng ngàn năm nay, Đình Chèm vẫn ngự sát bên bờ
sông Hồng nặng phù sa. Theo sách Việt Điện U Linh cũng như ngọc phả của đình thì
đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ thứ VII. Từ khi khởi dựng đến nay, do toạ lạc
trên khu đất sát kề bờ sông Hồng, nên hàng năm, vào mùa mưa lũ, đình Chèm luôn
bị ngập lụt.
Đình Chèm đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa
lớn và mở rộng. Theo văn bia tại đình và dòng chữ Hán ghi trên thượng lương thì
toà Hậu cung được xây dựng năm Long Đức thứ 3 (1631) và được trùng tu năm Quang
Trung thứ 5 (1792) năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793); toà Đại bái được sửa chữa năm
Cảnh Thịnh thứ 5 (1797)...
Đặc biệt vào những năm 20 của thế kỷ XX, dân
vùng Chèm đã tiến hành một việc quan trọng và táo bạo là nâng toàn bộ ngôi đình
lên cao. Kíp thợ thủ công của làng Diễn Văn Trì, Từ Liêm do thợ cả Vương Đình
Địch chỉ huy kiệu đình.
Mái ngói được dỡ ra, các cột đình được buộc
chằng với nhau chắc chắn. Kỹ thuật nâng đình được thực hiện theo phương pháp đòn
bẩy bằng cách mỗi chân cột đóng một chiếc đinh bừa, đầu kia buộc một chiếc quang
gánh. Mỗi chân cột đình cử một trai đinh phụ trách, khi ra hiệu lệnh bằng một
tiếng trống thì các trai đinh đứng chân cột bỏ một viên gạch bát vào chiếc
quang. Cho đến khi số viên gạch đủ nặng để nâng đều các chân cột đình lên vừa đủ
thì các trai đinh này lại nhét ngay một viên gạch bát xuống dưới chân cột rồi
lấy cát lấp vào giữ cho nền luôn chắc.
Cứ như vậy cho đến khi đình có độ cao vừa bằng
mặt đê sông Hồng. Bằng bàn tay và khối óc, người dân làng Chèm đã lập nên kỳ
tích bằng việc nâng toàn bộ kiến trúc của đình cao hơn nền cũ 2,4m chỉ bằng các
dụng cụ của nhà nông.
Cuộc kiệu đình này tốn hết 500 đồng tiền Đông
Dương mà công xá ngày ấy chỉ có 7 xu một ngày. Đến nay, tất cả kiến trúc của
đình Chèm vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ bố cục đến kiểu dáng cả một tổng
thể những di tích cổ kính nằm hài hoà trong một không gian rộng thoáng, bên sông
Hồng...
Theo
Vietnam+