Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
Cũng như “quốc bảo” áo dài và nón lá, đôi guốc mộc bé nhỏ, đơn sơ là thế mà đã in dấu bền bỉ suốt hàng ngàn năm trong hành trang văn hoá dân tộc, tạo nên một vẻ đẹp mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam.

Đi tìm nguồn gốc
Khó có thể định rõ mốc ra đời cũng như chủ nhân đã sáng tạo nên di sản văn hoá giản dị, mộc mạc này nhưng chắc đó là sản phẩm văn hoá do người Việt sáng tạo nên từ rất xa xưa. Truyền thuyết dân gian “Chín chúa tranh ngôi ” của Cao Bằng hay sách cổ Giao Châu ký của Trung Quốc ( thế kỷ III) đã nhắc đến đôi guốc.
Thủa ban sơ, guốc “mộc” là vật dụng đi chân của cả nam và nữ, đế bằng, thấp bằng gộc tre, quai mây cốt bảo vệ đôi chân trong mùa giá rét và tránh nóng. Sau đó, guốc mộc được chau chuốt hơn về hình dáng với loại gỗ có trong vườn nhà nông như mít, xoan, de, mỡ, dàng dàng, kiểu “tự cung tự cấp” …
Lốc cốc khắp làng trên xóm dưới, phố phường, thị tứ là tiếng guốc mộc. Lẹt quẹt là của các cụ già, đĩnh đạc là của cụ đồ, lách cách, nhẹ nhàng là của các cô các chị, rộn ràng là của lũ trẻ ranh, đến độ, thân quen như hơi thở cuộc sống. Guốc mộc đích thị là sản phẩm thể hiện sự thích ứng với điều kiện tự nhiên khá tinh thông của người Việt, trong điều kiện nắng lắm, mưa nhiều. Năm 1944, Hilda Arnhold, một tác giả nữ người Pháp, làm việc ở Hà Nội có viết cuốn ký sự nhan đề Bắc kỳ - phong cảnh và ấn tượng đã có hẳn một “bài ca guốc gỗ” với cảm nhận tinh tế như của một người con đất Việt.
![]() |
![]() |
Sự độc đáo của guốc mộc Việt
Dù guốc mộc của Việt Nam là sản phẩm bản địa nhưng không phải là sản phẩm độc quyền bởi các dân tộc khác cũng sáng tạo ra guốc mộc của mình, là bộ phận cấu thành nên trang phục dân tộc như guốc Hà Lan, guốc gỗ geta Nhật Bản. Guốc geta là một miếng đế bằng gỗ hình chữ nhật với hai miếng gỗ đỡ bên dưới làm gót và một cái quai ở bên trên, các ngón chân giữ lấy phần trên của quai. Guốc gỗ Hà Lan là loại được khét rỗng để tạo đế tạo đế và phần mũi che kín bàn chân, mũi vểnh lên hình chiếc thuyền, thân guốc như một khoang thuyền kín được thêm rơm đi cho êm và ấm. Nhìn chung, cả hai loại này đều khá nặng và khó di chuyển. Guốc mộc Việt cấu tạo đơn giản, mũi tròn, dáng thon thả theo bàn chân làm cho bước chân của phái nữ đi lại nhẹ nhõm hơn. Cả quy trình tạo nên guốc mộc Việt cũng dễ dàng hơn, đơn giản hơn nên việc làm đẹp của các chị em thuận lợi hơn.
Từ truyền thống đến hiện đại
Đến từ cuối thế kỷ XIX, guốc mộc mới trở nên thịnh hành và bắt đầu có những thay đổi rõ dệt về kiểu dáng và chất liệu. Đôi guốc mộc đã được gọt đẽo thanh thoát hơn bởi những người thợ tài hoa. Quai guốc thay đổi từ dây mây sang vải rồi cao su, đế đệm miếng cao su mỏng nên bước chân của chị em êm ái, mơ màng hơn. Guốc không chỉ là vật dụng để bảo vệ đôi chân mà thở thành một thứ phục trang tôn thêm phong cách, biểu đạt gu thẩm mỹ của người sử dụng. Nhà giàu sang thì dùng guốc sơn son thếp vàng, khảm trai, bịt quai gấm, nhà nghèo dùng guốc đẽo từ xoan, quai da trâu..Khoảng những năm 40 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những đôi guốc sơn màu sắc sặc sỡ, nhất là dành cho phụ nữ và phải đến sau năm 1975, guốc mộc thực sự bước vào một cuộc cách mạng về kiểu dáng về chất liệu, khẳng định là thời trang ưu ái cho phái đẹp, cùng với váy áo. Guốc mộc đã vượt qua khuôn khổ của “mộc” và sự đơn điệu về kiểu dáng với sự xuất hiện của chất liệu nhựa…
Từ sản phẩm “tự cung tự cấp” đến sản phẩm hàng hoá, đôi guốc mộc đã đi một bước dài trong lịch sử, kéo theo sự ra đời của nghề làm guốc, nổi tiếng với làng nghề Bình Nhâm (Thuận An, Bình Dương), Làng Đơ Đồng (Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội), Kẻ Giày (Liên Trung, Đan Phượng, Hà Tây, Hà Nội). Đôi guốc bé nhỏ là thế nhưng là sự hội tụ tinh hoa của các làng nghề mộc, sơn mài, tơ lụa, đính hạt thêu tay…Đôi bàn chân chị em lung linh, nâng niu hơn vì sự biến đổi linh hoạt của guốc.
Bước sang thế kỷ XXI, guốc lên ngôi với sự bùng nổ về kiểu dáng, màu sắc và chất liệu. Quy trình sản xuất guốc là thiết kế mẫu với độ dốc như thế nào để đảm bảo đường cong mặt guốc phù hợp với phần lõm của lòng bàn chân, trọng lực hợp lý không làm tổn hại đến cột sống và còn có thể mát – xa các huyệt đạo của người mang guốc. Quai thì đủ loại, đủ hình dạng, màu sắc và chất liệu, từ nhựa, simili đến nhung, vải, ni lông, thêu và đính cườm, cẩn đá, chạm bạc..; loại đơn đến quai kép, xỏ ngón. Guốc đã đi gần đến với xăng đan và giày khi có thêm quai hậu. Dáng guốc đa dạng với mũi vuông, nhọn, tù..; Đế thì đủ hình đủ dạng, đặc hay rỗng, eo hay thóp nhưng thường là gót rời, từ thấp đến cao. Hơn thế nữa, guốc mộc Việt đã hội nhập với thời trang thế giới, tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường nên mẫu mã phong phú, đẹp hơn, nhất là đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
![]() |
Duyên thầm guốc mộc
Cùng với việc sản xuất là văn hoá dùng guốc mộc với sự in dấu đầy kiêu hãnh của guốc trong các loại hình nghệ thuật, thơ ca, hội họa, trong ký ức đẹp đẽ của tuổi thơ và quê hương của biết bao thế hệ người Việt. Đôi guốc đã làm cho chị em nữ tính hơn, duyên dáng hơn bởi khi đi guốc, phải nhẹ nhàng, khéo léo, không thể vội vàng hấp tấp, không thể cẩu thả lê quẹt. Bỏ đôi dép lê trong nhà, lau đôi bàn chân lấm lem bùn đất, chị em phải chỉn chu đầu tóc, trang phục, điệu đà nhiều hơn với guốc mộc. Guốc mộc ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại nên cũng thuận tiện hơn cho việc chọn lựa khi mặc các loại trang phục khác nhau của các cô, các chị hay quý bà hôm nay.
Từ làng quê, guốc mộc Việt đã lên ngôi với sự hiện diện trên khắp các nẻo đường, trên các sàn diễn thời trang, trong túi quà của người xa sứ. Cùng với áo dài, nón lá, guốc mộc Việt, từ cổ đến kim đã tạo nên cái đẹp rất Việt của phái đẹp, cái đẹp của sự dịu dàng, duyên dáng, cái duyên thầm không chỉ trong cái nhìn, mà cả ở sự cảm nhận.
K.D (st)