Đến với vùng đất cực bắc Tây
Nguyên chúng ta sẽ được đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, bởi đây là một
vùng văn hóa cổ. Từ di chỉ khảo cổ học Lung Leng, Plây K’rông đến Đăk Wơt, Đăk
Pha, Đăk Phía… và mới đây lại là những “Pơ tâu tho nhi” (những thanh đá biết
kêu) được phát hiện ở Chư Tan K’ra huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum mà những nhà
chuyên môn gọi là Đàn đá.
Câu chuyện huyền thoại
Câu chuyện được bắt nguồn từ
“con người huyền thoại”. Anh là A Huynh, người làng Plây Chốt thị trấn Sa Thầy,
được sinh ra trong một gia đình từ đời cố rồi đến đời ông nội và bố của anh đều
là chủ làng (Phun Plây) mà ta thường gọi là tầng lớp trên của xã hội cũ. Do là
tầng lớp trên nên gia đình anh sớm được tổ chức cách mạng để ý và tranh thủ nên
đã trở thành một trong những gia đình cơ sở cách mạng sớm nhất ở vùng
Tây bắc
Kon Tum. Bản thân A Huynh cũng là cựu chiến binh, ngoài lao động sản xuất và các
hoạt động xã hội thì niềm vui nhất của anh là khi một mình ở rẫy dưới chân núi
Chư Tan K’ra với những “Pơ tâu tho nhi”.
Rẫy nhà A Huynh ở dưới chân
núi Chư Tan K’ra, cách Plây Chốt khoảng 15km. Đường đi qua những cánh rừng cao
su bạt ngàn và những rẫy mì xanh tốt. Đến nơi đây, mọi người ai nấy đều ngỡ
ngàng trước vẻ đẹp của thiên nhiên hoang sơ và huyền bí nhưng đầy chất thơ mộng
của một khu vườn rộng chừng 3ha, gồm có rừng, rẫy, ao, ruộng. Vẻ thơ mộng càng
được tôn thêm bởi bàn tay của chủ nhân là một người mang tâm hồn nghệ sĩ. Con
suối La Lân trong vắt chảy qua càng làm cho khung cảnh thêm hữu tình, lãng mạn.
Theo A Huynh cho biết, khu
rẫy nhà anh có từ thời ông cố, cho đến đời ông nội thì vẫn du canh. Bố anh là
ông A Huyết, ông là người nổi tiếng khắp vùng về sự giàu có trước đây, còn sau
này nổi tiếng bởi công lao đóng góp cho cách mạng. Đến đời bố anh thì ông dựng
lên ở khu này một ngôi nhà khang trang không kém gì nhà ở trong làng. Kho lúa có
cả chục cái, trâu, bò, heo nằm chật gầm sàn.
Gia đình A Huynh mỗi anh chị
em được bố chia cho một khu rẫy, bản thân A Huynh không thích các rẫy gần làng,
mặc dù làm rẫy ở những nơi ấy thuận tiện nhiều bề. Anh vào nhận rẫy ở Chư Tan
K’ra bởi tiếng của “Pơ tâu tho nhi” đã thấm vào trong máu thịt, “Pơ tâu tho nhi”
cứ vọng mãi trong lòng anh từ hồi còn thơ bé, khi còn trên lưng mẹ, mỗi khi vào
mùa, bố anh thường sắp đặt những “Pơ tâu tho nhi” để đuổi chim, đuổi thú…
Ông nội của A Huynh là cụ A
Nới, thừa hưởng kinh nghiệm của các đời trước, cụ đã tìm những thanh đá biết kêu
dọc suối Ia Lân để đuổi chim, đuổi khỉ khi chúng vào phá rẫy. Lúc đầu chỉ một
thanh lớn và dùng hòn đá nhỏ để gõ, sau đó ông sắp đặt 3 thanh tạo nên giai điệu
như tiếng goong (3 chiếc chiêng có núm trong một bộ chiêng). Anh kể, anh không
được gặp mặt ông nội, nhưng không biết từ khi nào anh đã nghe bố anh gọi những
thanh đá này là những “goong pơ tâu” (chiêng đá).
“Báu vật nhân văn sống”
Trong những năm ở quân ngũ,
A Huynh đã từng nghe qua đài, tivi rằng ở Khánh Hòa, Đăk Lăk cũng có đàn đá. Ở
đấy họ biết dùng sức nước để tạo nên một giàn đàn đá 7 chiếc, 12 chiếc và không
còn là để đuổi chim, đuổi thú nữa mà để giải trí, để phục vụ nghiên cứu, phục vụ
khách tham quan. A Huynh liên tưởng đến “goong pơ tâu” của mình ở Chư Tan K’ra.
Sau ngày xuất ngũ anh lại
gắn bó với khu rẫy ở Chư Tan K’ra. Cùng những thanh đá sẵn có trước đó ở quanh
nhà, rồi những lần ngăn suối Ia Lân bắt cá anh tìm thêm được nhiều thanh đá biết
kêu khác.
Cứ lặng lẽ một mình cùng với
những “goong pơ tâu” ở rẫy mỗi khi rảnh rỗi, cho đến một năm gần đây trong đợt
Hội diễn nghệ thuật quần chúng ở huyện Sa Thầy, A Huynh đã đưa “goong pơ tâu”
lên sân khấu, không phải là 3 thanh mà là 12 thanh, đủ bộ như một bộ chiêng
goong của người Gia Rai. Những làn điệu dân ca Gia Rai như Hát tỏ tình, giao
duyên, đối đáp, Hát ru em…đã làm cho tất cả những người có mặt trong đêm hội
diễn ngỡ ngàng, bởi nó rất hay và lạ. Đặc biệt là đối với những cán bộ chuyên
môn. Đàn đá cùng cái tên A Huynh nổi tiếng từ đó.
Quả thật, tiếng đàn đá của A
Huynh khi thì trầm hùng như dội từ vách núi, khi thì réo rắt như tiếng gió của
đại ngàn, khi thì, róc rách, lảnh lót… làm cho người nghe, người được chứng kiến
hết sức ngạc nhiên và thán phục. Nghe tiếng đàn đá của
A Huynh, chúng tôi tưởng như mình đang nghe tiếng vọng từ ngàn xưa của đại ngàn
gửi lại.
Theo chúng tôi, những thanh
đá biết kêu hơn cả “Pơ tâu tho nhi” (đá biết kêu) mà nó là “goong pơ tâu”, không
chỉ có giá trị về lĩnh vực âm nhạc, về di sản văn hóa của người Gia Rai và cả
vùng Bắc Tây Nguyên mà nó còn có giá trị về lịch sử. Lịch sử một vùng đất mang
dấu vết cư trú của con người cách đây 2 - 3 ngàn năm của thời kỳ đá mới, đến sơ
kỳ đồ đá cách chúng ta hàng vạn năm thông qua hệ thống các di chỉ khảo cổ học
thời đại đá ở Sa Thầy mới được phát hiện và khai quật mấy năm gần đây. Mối liên
hệ này chúng tôi chưa dám khẳng định mà là trách nhiệm của các nhà khoa học
chuyên ngành. Chúng tôi chỉ nói rằng, “goong pơ tâu” ở chư Tan K’ra, Sa Thầy,
Kon Tum là một vốn di sản văn hóa quý báu và chủ nhân của nó, nghệ nhân A Huynh
là một “Báu vật nhân văn sống” cần được tôn vinh, bảo tồn và gìn giữ.
Đ.T (st)