Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Họ có mặt ở miền Nam, ở Tây Ninh vì một mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Đánh đuổi kẻ thù, mong ngày thống nhất non sông để “mẹ được gần con, vợ gần chồng”.
Những người lính đi qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất giang sơn, gìn giữ quê hương, đều có một điểm chung: Chỉ mong hết chiến tranh để trở về quê hương. Ba nhân vật trong loạt bài này, thật tình cờ, họ đến từ ba miền Bắc, Trung và Nam. Họ có mặt ở miền Nam, ở Tây Ninh vì một mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Đánh đuổi kẻ thù, mong ngày thống nhất non sông để “mẹ được gần con, vợ gần chồng”.
“Tôi đi nhanh và gấp”
Buổi chiều, những ngày đầu mùa khô, nắng vàng nhạt trong căn nhà cấp 4 ở xã Thái Bình, huyện Châu Thành, ông Đinh Khắc Mại (quê Hà Tĩnh) trầm tư nhớ lại thời lên đường “đi B” - vì miền Nam ruột thịt.
“Bố mẹ tôi sinh được hai anh em, trong đó có một người khuyết tật, theo lẽ thường, tôi không thuộc diện nhập ngũ, vì tôi đi, ở nhà không còn ai lao động. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định lên đường”- ông Mại mở đầu cuộc trò chuyện.
Ông kể tiếp: “Tôi đi nhanh và gấp vì chiến trường đang cần người. Tôi tham gia bộ phận trinh sát, luồn sâu để trinh sát nắm tình hình địch, báo về cho đơn vị. Mặt trận Quảng Trị ác liệt như thế nào, chúng ta đã biết rồi.
Tôi chiến đấu ở Quảng Trị từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1972. Sau đó, tôi vào Lộc Ninh (Bình Phước hiện nay) chuẩn bị giải phóng Sài Gòn. 21 năm kể từ ngày đất nước bị chia đôi, cuối cùng, non sông thu về một mối.
Sau năm 1975, cấp trên điều đơn vị chúng tôi đóng quân tại Cam Ranh (Khánh Hoà) chuẩn bị cho tình hình biển đảo. Tôi ở đó 1 năm. Thật không ngờ, chỉ vài năm sau chiến tranh chống Mỹ cứu nước, tình hình biên giới phía Bắc có vấn đề.
Tôi và cả đơn vị lại được điều ra chuẩn bị cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc. Đài quan sát của chúng tôi đặt tại tỉnh Lạng Sơn bị địch cố đánh chiếm nhưng không thành công. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc mới chỉ tạm lắng, tiếng súng chưa ngừng hoàn toàn, tôi được cấp trên cho đi học ở Học viện Lục quân Đà Lạt 3 năm. Ra trường, Bộ Quốc phòng điều tôi về Quân khu 9, ở miền Tây, lúc đó làm lãnh đạo cấp Trung đoàn mang quân hàm Trung tá.
Một năm sau, theo tình hình mới, đơn vị giải thể và điều tôi về Sư đoàn Bộ binh 5, Quân khu 7. Năm 1986, tôi sang chiến trường Campuchia, tham gia nhiều trận chiến đấu giúp bạn tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer đỏ.
Phải nói điều này, những ngày tháng ở đó vô cùng gian khổ. Chúng tôi chiến đấu trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô đến, thiếu nước, phải chia nhau từng ngụm. Không có nước sạch đâu, nước từ những vũng trâu đầm.
Tàn quân Khmer đỏ đi đến đâu thả mìn đến đó nên phía ta thương vong nhiều, tôi bị thương tại chiến trường này. Một quả mìn phát nổ, người bên cạnh tôi hy sinh. Còn tôi bị sức công phá của quả mìn hất văng vào một bụi tre”- ông Mại dừng dòng hồi ức.
Ông Nguyễn Ngọc Hưng và người bạn đời.
Ông đã đi qua 3 chiến trường khác nhau ở ba thời kỳ khác nhau, vậy, ông nghĩ gì về chiến tranh, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc? “Chúng tôi lớn lên trong thời đất nước có chiến tranh. Nhiệm vụ, bổn phận của thanh niên là bảo vệ đất nước.
Chúng tôi luôn có lòng yêu nước, bảo vệ đất nước bất cứ thời điểm nào, khó khăn gian khổ cỡ nào cũng bảo vệ đất nước. Chúng tôi vừa đánh địch vừa học tập để giữ nước. Hơn ba mươi năm trong quân ngũ, chiến đấu ở ba chiến trường khác nhau, ba thời kỳ khác nhau, ba đối thủ khác nhau, tôi không một lần nào vi phạm kỷ luật của đơn vị.
Tôi được nhiều huân, huy chương và cảm thấy vinh dự vì điều đó. Tôi có một mong muốn, so với thời chiến, thời bình điều kiện thuận lợi, người cán bộ trong quân đội, người chiến sĩ trẻ cần rèn luyện tốt mọi mặt, để bảo vệ đất nước và nhân dân.
Cho tôi nói thêm, các bạn phóng viên đến thăm, tôi bất ngờ. Không có cuộc gặp gỡ này, tôi cũng như muôn vàn người lính khác, hết chiến tranh, hết tuổi phục vụ quân đội, chúng tôi trở về cuộc sống đời thường, không hề có ý phô trương hay kể công này nọ đâu, hoàn toàn không”- ông Mại chia sẻ.
Trong cuộc gặp gỡ với ông Đinh Khắc Mại, chúng tôi tình cờ gặp một số học viên Trường cao đẳng Cảnh sát nhân dân II đang đi thực tế ở địa phương, họ ở nhà ông Mại trong thời gian này. Ngày truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam đang đến gần, là học viên trường cảnh sát, các bạn có điều gì muốn nói? “Tôi biết Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ giang sơn gấm vóc.
Tám mươi năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nhận thấy quân đội ta phát triển vững mạnh hơn trước rất nhiều. Quân đội và Công an là hai lực lượng song hành cùng nhau, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Quân đội hỗ trợ cho lực lượng Công an rất nhiều, bản thân tôi trong tương lai sẽ trở thành chiến sĩ Công an và sẽ góp một phần sức lực của mình vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc”- một học viên trả lời.
Ông Đinh Khắc Mại và hai học viên Trường cao đẳng Cảnh sát nhân dân II.
“Chúng tôi, hơn 500 người, rời đất tổ Hùng Vương”
Tại xã Tân Đông, huyện Tân Châu, một buổi chiều mùa khô, ông Nguyễn Ngọc Hưng, quê tỉnh Phú Thọ, kể: “Năm 1966, lúc đó tôi mới 20 tuổi, theo tiếng gọi của Bác Hồ cùng Đảng và Nhà nước, tôi làm đơn để xin nhập ngũ lên đường cứu nước.
Tôi tham gia Đoàn 175 vào miền Nam. Chúng tôi, hơn 500 thanh niên rời đất tổ Hùng Vương vào chiến trường miền Nam. Mất đúng sáu tháng rưỡi, chúng tôi đặt chân đến tỉnh Bình Phước, hồi đó gọi là tỉnh Phước Long.
Tại đây, tôi được học y sĩ ở Bệnh viện 71A. Học xong, tôi được bổ sung về đơn vị B33, đơn vị quân khí, ban đầu làm nhiệm vụ giữ kho đạn. Sau đó tôi được cử xuống một binh trạm tên K8 có nhiệm vụ phục vụ đạn dược cho quân đội.
Một hôm, chúng tôi thấy trên những cánh rừng và cả trên người mình có loại chất gì đó như lớp sương mù bao phủ. Chúng tôi chạy vào lán trại tìm áo mưa để mặc vào, ướt hết cả áo mưa. Chúng tôi không hề biết lớp sương mù ấy là chất độc hoá học.
Tôi bị nhiễm chất độc màu da cam từ thời điểm đó. Chúng tôi sử dụng nước của Sông Bé, lúc đó không biết đã bị nhiễm độc. Ai cũng còn trẻ nên không hiểu vũ khí hoá học là gì, sau khi địch phun loại hoá chất như sương mù ấy, ba ngày sau, cây không còn lá, côn trùng phát triển rất nhiều”.
Tuổi cao, mang trong mình nhiều căn bệnh nhưng ông Hưng có trí nhớ rất tốt. “Ngày 31.5.1971, tôi được điều sang Campuchia, một thời gian sau, tôi về tiếp quản trạm Bổ Túc, Suối Ngô, Tân Châu. Năm 1973, tôi về Suối Ngô, tham gia cứu thương trong vai trò là chiến sĩ quân y, nhận thương binh và chăm sóc.
Sau đó tôi về Bệnh viện K52 tại Suối Bà Chiêm (xã Tân Hoà, Tân Châu hiện nay). Tôi nhớ, một đêm có thể tiếp nhận 500 thương binh, phần lớn do trúng bom, đa phần ở độ tuổi 18, 20, chưa ai có gia đình. Tôi nhớ trường hợp một anh thương binh lúc đó mới 18 tuổi, bị thương vào đầu, đơn vị yêu cầu ưu tiên chữa trị cho anh thương binh này.
Đêm đó, có lẽ trong cơn mê sảng, anh thương binh hát chèo rất hay. Nhìn anh, tôi chảy nước mắt. Lúc bấy giờ tình cảm anh em đồng chí đồng đội rất thương yêu nhau. Sức mạnh của quân đội từ lòng người, từ ý chí của con người.
Theo tôi, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày ấy và cả bây giờ, đều “vì nhân dân quên mình”. “Chúng tôi đi không tiếc tuổi xanh/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc thì còn chi Tổ quốc”. Hành trang của chúng tôi là lòng yêu nước, đầu đội nón cối, vai mang AK47. Khi đó, tôi chỉ mong đất nước nhanh thống nhất để được trở về với gia đình, thấy anh em cha mẹ, họ hàng nhà mình, vì rất nhớ quê, nhớ cả hình ảnh con trâu đi cày”- người lính già tâm sự.
“Tôi quen ông nhà năm tôi 16 tuổi. Lúc đó, gia đình cũng lo lắng vì ông ấy người miền Bắc còn tôi người miền Nam, không biết cưới về ông ấy có bỏ đi hay không. Cả đời chung sống, tôi thấy ông ấy rất tốt, đàng hoàng, lo cho gia đình. Con trai út của tôi không may bị di chứng của chất độc màu da cam, gia đình chăm sóc, lo lắng cho con”.
Bà Đào Thị Khênh, người phụ Khmer lấy anh bộ đội làm chồng nói về người bạn đời của mình
Việt Đông - Hoàng Yến
(còn tiếp)