Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Cần khắc sâu một vấn đề mang ý nghĩa phương pháp luận cơ bản trong việc tiếp tục đổi mới chính trị hiện nay rằng, không thể nôn nóng, vội vàng, càng không thể chờ đợi, cầu toàn và càng không thể trông đợi vào sự may mắn dịch chuyển mô hình tiên nghiệm hay sẵn có nào.
Cả ba thái cực đều đem lại hậu quả tệ hại, thậm chí khôn lường như nhau. Phải tự tìm lấy lối đi, với những điều kiện cụ thể, theo lộ trình phù hợp, trong phạm vi cho phép và khả năng hiện hữu, với hệ thể chế phù hợp. Nhìn tổng thể, trong hệ động lực phát triển hệ thống chính trị đổi mới nổi bật các vấn đề chủ yếu:
Thứ nhất, bình đẳng. Trước pháp luật, mọi tổ chức dù chính trị hay xã hội và mọi cá nhân, mọi giới tính và lứa tuổi, mọi tôn giáo… đều bình đẳng. Đó là nguyên tắc vận hành một cách dân chủ theo luật định của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, xét về tính chỉnh thể. Đó cũng chính là tính tối thượng của pháp luật, sự dân chủ của nền pháp quyền Việt Nam.
Gần đây, các nhà quan sát lại rộ lên rằng: “Bất cứ chủ thuyết hay chủ trương điều hành đất nước nào cũng rất khó thành công nếu phải dựa dẫm, tránh né hay thoả hiệp với người cầm quyền, khi họ lấy sự chi phối chính trị làm mục tiêu” (!); rằng: “…Sự thiếu vắng của giới kỹ trị đã làm cho dự án đang bên bờ vực thẳm, chưa nói đến chuyện quốc phòng và an ninh quốc gia”(!); và rằng: “Đã dùng ý chí cho lá phiếu rồi, khi “ý chí” nhầm tai hại, chẳng ai lại bỏ phiếu tín nhiệm một cách công bằng nữa”(!).
Cần bác bỏ một cách kiên quyết rằng, những người đang cố khoác cho mình mảnh “chiến bào” với “sứ mệnh” tiếp tục thổi phồng, bảo vệ kỹ trị một cách mù quáng để phê phán cái gọi là chính trị quyết định tất cả, đối lập giữa chính trị và kỹ trị, thổi phồng đa nguyên chính trị là những trò bịp bợm, dối trá đầy nguy hiểm.
Thứ hai, pháp quyền. Pháp luật phải là tối thượng với tinh thần quốc pháp bất vị thân. Không thể không xây dựng và phát triển hành lang pháp lý tổng thể và đủ mạnh để kiến tạo hệ thống chính trị đổi mới. Đó là trọng trách của pháp quyền, một bảo đảm căn bản, một động lực chủ yếu để bảo đảm thành công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.
Pháp quyền là phương thức hành động tất yếu thực thi chính trị nhân bản, và pháp luật là cái giới hạn tối thượng để thực thi dân chủ một cách tự do và minh bạch đối với chúng ta, mà tất cả đều vì nhân dân! Nhất định nó không phải là thứ pháp trị vị pháp trị, pháp quyền vị pháp quyền, mà là pháp trị vị tự do, pháp quyền vị dân chủ, vị nhân văn!
Gần đây, ai cũng thấy, ngay trong việc làm trong sạch bộ máy của hệ thống chính trị, chúng ta không thể không “lấy chữ Nhân (nhân trị) làm trọng để giải quyết tham nhũng, làm trong sạch Đảng” nhưng càng không thể không dụng “pháp trị để thẳng tay với quốc nạn đục khoét đất nước”; chúng ta quyết không mơ hồ “không thể để pháp trị ghi trong Hiến pháp nhưng ngoài đời lại dùng nhân trị một cách không đến nơi đến chốn, chỗ này dùng luật khắt khe, ác độc, chỗ kia tha thứ vì bạn bè đồng chí, một cách tuỳ tiện”, như không ít lời khuyên dối trá.
Thượng tôn pháp luật với quốc pháp bất vị thân!
Thứ ba, dân chủ. Đó là mục tiêu, là động lực kiến tạo hệ thống chính trị Việt Nam. Nói cách khác, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là con đường. Nó không hề mâu thuẫn với việc tiếp biến các thành tựu của nhân loại: pháp quyền hay kỹ trị…
Cùng với pháp quyền, dân chủ là mục tiêu mà pháp quyền hướng tới, và đến lượt nó, pháp quyền là giềng mối để dân chủ đích thực được thực thi.
Người ta quên (hoặc cố tình) và chối bỏ, rằng Nhân dân Việt Nam được tổ chức thành hệ thống chính trị, khi họ thực hiện hành động chính trị để “bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền”, “cử ra” chính quyền các cấp và “tạo ra” các đoàn thể từ Trung ương tới địa phương. Nghĩa là, đặc trưng chính trị của Việt Nam, xét về mặt tổ chức chính trị xã hội, rằng nhân dân không chỉ tạo ra Nhà nước mà là cả hệ thống chính trị, rằng Nhà nước chỉ là một bộ phận trong đó. Người ta lại cũng cố quên rằng, nó là một phương thức tổ chức xã hội hiện đại - xem chế độ nhà nước chỉ là một yếu tố tồn tại nhân dân, nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ là một hình thức tồn tại đặc biệt của Nhân dân. Nhà nước nhỏ và xã hội lớn.
Chúng ta thừa hiểu và không ngừng hành động, Đảng chỉ có thực hiện dân chủ thực sự cho Nhân dân, lãnh đạo xã hội để Nhân dân là chủ và làm chủ, nâng cao địa vị, quyền hành và năng lực làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Nếu bất chấp lòng dân, ý dân thì dân oán. Mà “dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại” - như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói.
Đó là con đường thực thi dân chủ duy nhất đúng đắn, phù hợp với chúng ta, trong thế giới ngày nay!
Thứ tư, minh bạch. Dân chủ, bản thân nó đã bao hàm minh bạch. Nhưng, không có minh bạch thì không có dân chủ hoàn bị! Có thể nói, công khai là “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương” của nền dân chủ, của hệ thống chính trị được kiến tạo một cách khoa học nhằm thực thi dân chủ một cách hoàn bị.
Vì vậy, minh bạch và công khai là hai nhân tố động lực của dân chủ để kiểm soát toàn vẹn một cách dân chủ, nhằm thực thi dân chủ một cách đúng đắn và hoàn bị, theo tinh thần pháp quyền. Nhưng, chỉ vì cái gọi là minh bạch lại đòi đẩy tới sự “bạch hoá” một cách trần trụi, vô hạn độ, vô chính trị và văn hoá, như có người kêu gào, thì chính là phản minh bạch, vô hình sỉ nhục dân chủ và báng bổ, bóp nghẹt luôn cả chính trị.
Thứ năm, phản biện. Tranh luận một cách dân chủ, công khai, bình đẳng và có văn hoá là con đường ngắn nhất, dù gập ghềnh, khó khăn, để dẫn tới chân lý. Đó là sinh khí của nền chính trị dân chủ cho nhân dân mà chúng ta kiến tạo, bắt đầu từ mỗi thành viên của hệ thống chính trị, giữa các thành viên của toàn hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Đó cũng chính là một trong những con đường phát triển dân chủ.
Những quyết sách chính trị đúng đắn một phần quan trọng chỉ được xây dựng theo tinh thần đó, thông qua đối thoại, tranh luận, phản biện một cách cầu thị, khoa học và đầy trách nhiệm với quốc gia và với vận mệnh của mỗi người. Không độc quyền chân lý, không áp đặt tư tưởng, không chụp mũ chính trị là “hàn thử biểu” của tinh thần dân chủ và pháp quyền, thấm đẫm nhân văn một cách thành tâm, trong sáng, vì sự phát triển của dân tộc.
Thứ sáu, trách nhiệm. Bình đẳng, dân chủ, minh bạch, phản biện… theo pháp luật tự chúng đã dẫn tới sự bảo đảm trách nhiệm và chịu trách nhiệm về pháp lý và đạo lý. Không giữ vững và bảo đảm trách nhiệm với quốc gia dân tộc, với chính mình thì mọi việc sẽ trở nên trống rỗng, thậm chí hỗn loạn, nguy hiểm đối với toàn cục hệ thống. Đây là “khoảng trống” thường bị coi nhẹ hoặc thực thi chưa thoả đáng đây đó, trước nay, trên bình diện tổ chức thực tiễn kiến tạo và vận hành của hệ thống chính trị.
Buông lỏng trách nhiệm, tắc trách… nhất định thất bại.
Trách nhiệm trước lịch sử, trước Nhân dân và cụ thể là trước chính mình, trên nền tảng dân chủ, bảo đảm bằng pháp quyền, đó phải là bổn phận của các thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, dù là Đảng, Nhà nước hay bất cứ một thành viên nào khác.
Thứ bảy, lòng tin của Nhân dân. Lý do tồn tại trước hết và quyết định là lòng tin của Nhân dân và sự ổn định của hệ thống chính trị hiện nay đều đặt trên khả năng quản lý và lãnh đạo xã hội chứ không phải chỉ dựa vào quá khứ.
Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng chính là vốn quý nhất trong các tài sản của Đảng, trong dẫn dắt đất nước, lập nên công trạng cho dân tộc. Đảng lãnh đạo để Nhân dân là chủ quốc gia, làm chủ đất nước.
Đối với Nhà nước, lòng tin của Nhân dân là quốc bảo. Nhờ nó, Nhà nước đứng vững trước những sinh - tử khi mới ra đời và suốt hơn 79 năm qua. Đây là động lực căn bản vô hình nhưng hữu hình, hàm chứa sức mạnh của thể chế chính trị nước ta, nhất là hơn 38 năm đổi mới qua.
Đó là thước đo và công cụ kiểm soát về sự mạnh yếu, thăng trầm, thậm chí sinh tử của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phải bảo đảm sao cho pháp quyền là sự cai trị của pháp luật chứ không dừng ở pháp trị là sự cai trị bằng pháp luật. Và, theo đó, mấu chốt quan trọng là, Nhân dân cũng như Nhà nước, tất cả đều bình đẳng và tự do trước pháp luật.
Đó là hệ động lực đi tới tương lai của sự phát triển của nền chính trị Việt Nam đổi mới. Thiếu những vấn đề cốt tử đó, chúng ta khó có thể có tầm nhìn chính trị xa rộng và đúng đắn.
Tiến sĩ Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
(còn tiếp)