Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1930-3-2-2020)
Chiến thắng Tua Hai trong ký ức đảng viên bí mật
Thứ sáu: 18:01 ngày 31/01/2020

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
Đồng chí Lê Cơ, Đảng bộ xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, là đảng viên bí mật trong lòng địch trước chiến thắng Tua Hai. Ông có ba lần được kết nạp Đảng, hai lần bị đày ra Côn Đảo. Hiện ông vẫn hằng ngày làm việc thiện, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.

Đồng chí Lê Cơ.

Trong hồi ký về sự kiện Chiến thắng Tua Hai của mình, đồng chí Mai Chí Thọ đã ít nhất ba lần nhắc đến cụm từ “binh vận Tỉnh ủy Tây Ninh”. Là một người hoạt động trong lực lượng này, lão đồng chí Lê Cơ vẫn nhớ như in các diễn biến trước khi diễn ra sự kiện lịch sử cách đây 60 năm.

Ông Lê Cơ kể lại: Tôi rời quê hương Hoài Thanh (Bình Định) khi đất nước vẫn đang còn bị chia cắt. Khi ấy, tôi sinh hoạt trong đội thiếu niên Cù Chính Lan, được các anh, các chú du kích bám trụ tại đây dạy: “Hãy biến căm thù thành sức mạnh, các em vào dùng kế lôi cuốn địch, dùng súng địch mà đánh địch. Vì vậy, hãy gác lại tình cảm riêng tư mà hăng hái bước vào hàng ngũ… của chúng!”.

Vì vậy, khi chúng tôi đến được vùng đất Tây Ninh năm 1958, thật sự chúng tôi cảm nhận ra khí chất trong đất, nước, rừng, con người Tây Ninh có điều gì đó thiêng liêng, gần gũi vô cùng, như là quê hương của mình vậy. Nhớ lời các anh dặn, trong lý lịch quân nhân sau này của tôi, không có một dòng nào nhắc về quê hương bản quán, dù tôi yêu quê hương Bình Định cũng như quê hương Tây Ninh thứ hai của mình.

Một thời gian ngắn sau đó, tôi hay lui tới tiệm may Hồng Thái chơi. Qua đó, tôi tiếp xúc được anh Sáu Tỏ, và may mắn hơn khi anh Sáu Tỏ là em ruột của đồng chí Võ Đức Tú, cán bộ thoát ly của ta. Sau nhiều lần bày tỏ ý định, tôi được anh Tỏ, anh Tú giới thiệu với đồng chí Phạm Việt Ngữ, phụ trách cơ quan binh vận của huyện Châu Thành, sau này là Bí thư Huyện ủy Châu Thành (sau này, chính đồng chí Phạm Việt Ngữ xác nhận thành tích cho tôi sau khi tôi bị đày ra Côn Đảo trở về)… Như cá gặp nước, tôi lân la chơi bời với đám lính, tìm mọi cách lấy lòng các hạ sĩ quan, sĩ quan chỉ huy địch. Từ đó, tôi được tuyển mộ sau khi cho đi học bốn tháng ở quân trường về kỹ thuật sửa máy móc, đánh truyền tin, đánh máy, kỹ thuật…

Khi đã có chỗ đứng và được tin cậy, cấp trên giao cho tôi phải báo các loại tin ra ngoài qua hộp thư như: kế hoạch ruồng bố, thời gian di chuyển của địch và quy mô cấp tiểu đoàn, đại đội hay sư đoàn. Thêm vào đó, tôi và các anh em khác còn phải nắm được mật khẩu tuần tra, bởi nếu khi ta và địch gặp nhau, nếu nói không khớp mật khẩu, thì “ai nổ súng trước, người đó thắng”. Ngoài các công việc được cấp trên giao, chúng tôi còn vẽ sơ đồ đóng quân, các chốt gác, thậm chí còn liệt kê các điểm gác có lính địch “cảm tình với cách mạng”; các ụ chiến đấu, ổ đề kháng và đầy đủ hệ thống giao thông hào…

Để làm công tác binh vận cho tốt, các đồng chí lãnh đạo huyện còn chỉ cách cho tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa sĩ quan và hạ sĩ quan, từ đó bày cách cho lính chống phạt, chống luyện tập hành hạ (bò trên bãi cát, chui kẽm gai, tắm giữa khuya…) và chống chế độ ăn mất vệ sinh, ăn thiếu chất. Tất cả các việc ấy, tôi đều được giao quyền chủ động thực hiện, chỉ báo cáo qua hộp thư mật nếu có gì quan trọng đột xuất, còn không chỉ báo cáo tháng. Ngày đó, với lòng yêu nước và sự trẻ trung nhiệt huyết, tôi làm bằng hai, bằng ba lần khối lượng công việc được các anh, các chú giao. Thấy được nhiệt huyết và lòng yêu nước của tôi, qua thời gian thử thách, đến tháng 8-1958, tôi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, hoạt động trong chi bộ trong lòng địch ngay tại Tua Hai.

Sáng hôm đó, tôi nhận chỉ thị là trưa phải có mặt tại một địa điểm gần trung tâm thị xã. Sau đó, cơ sở đưa tôi đến một căn nhà liền kề Ty Cảnh sát Tây Ninh. Trong nhà có sẵn một cái bàn dài, sáu cái ghế đẩu, trên vách có treo ảnh Bác Hồ và trên bàn là bình bông vạn thọ mới hái. Khi ấy, chúng tôi biết mặt nhau, chi bộ họp mặt, mắt chúng tôi đều cay xè vì xúc động và bất ngờ vì được kết nạp Đảng giữa tứ bề là địch, giữa cao điểm của Chiến dịch “Tố Cộng, diệt Cộng” mà Mỹ - ngụy đang ra sức thi hành. Tôi mãi biết ơn sự tài trí của Đảng bộ Tây Ninh, Tỉnh ủy Tây Ninh, Huyện ủy Châu Thành… Trọn đời theo Đảng, chi bộ ngày ấy giờ chỉ còn tôi, các đồng chí Nguyễn Kúc, Lê Uy đều đã qua đời.

Trên thực tế, từ những năm 1956-1959, Tỉnh ủy Tây Ninh đã xây dựng được cơ sở nội tuyến rất mạnh là chi bộ của chúng tôi ở Tua Hai. Thật khó ai ngờ, khi ấy, đã có chi bộ đảng trong trung đoàn địch. Chi bộ chúng tôi đã nhiều lần xin binh biến khởi nghĩa nhưng Tỉnh ủy chỉ đạo cứ tiếp tục phát triển cơ sở, chờ thời cơ. Sau đó, chi bộ chúng tôi bị lộ, bị bắt rồi bị đày ra Côn Đảo.

Theo biên bản xác nhận thành tích của các đảng viên trong lòng địch do đồng chí Phạm Việt Ngữ, nguyên Bí thư Huyện ủy Châu Thành, ghi rõ: “Năm 1957-1958, tôi là Huyện ủy viên phụ trách Binh vận huyện. Tháng 3-1958, ta đã tổ chức được ba cơ sở nội tuyến đầu tiên là Nguyễn Kúc, Lê Cơ, Lê Uy. Các đồng chí này trong vai trò lính ngụy, được giao lãnh đạo tất cả các phong trào đấu tranh chống luyện tập, gây mất trật tự quân ngũ, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, gây tâm lý bi quan trong hàng ngũ lính ngụy thuộc Trung đoàn 39 ở Tua Hai.

Ngày 10-8-1958, Ban Binh vận Huyện ủy Châu Thành đã kết nạp Đảng cho Nguyễn Kúc, Lê Cơ, Lê Uy; sau đó đồng chí Nguyễn Kúc giữ chức bí thư chi bộ và chi bộ này được giao xây dựng, lãnh đạo Chi đoàn, gây dựng thêm cơ sở để phát triển tổ chức. Quá trình hoạt động, chi bộ đã vận động binh sĩ ngụy hơn 200 người; báo cáo cung cấp tình hình phòng thủ địch, báo cáo luôn cả mật hiệu hằng đêm địch tuần tra canh gác, tạo điều kiện cho ta vẽ sơ đồ nghiên cứu đánh tập tích thành công Căn cứ Tua Hai năm 1960, thu nhiều súng đạn phục vụ đồng khởi vũ trang toàn Đông Nam Bộ”.

Tôi năm nay đã hơn 60 năm tuổi Đảng, và vẫn nhớ như in hình ảnh cấp trên phân công chúng tôi vẽ sơ đồ toàn bộ khu vực bố trí quân của địch trong Tua Hai, ghi rõ vị trí chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn; dãy nhà sĩ quan, dãy nhà lính, kho vũ khí, nhà thông tin, điện đài. Sơ đồ này phải chỉ rõ đường vào, đường vòng tránh vọng gác, nơi có gài mìn. Nhờ vậy, tôi biết được ban đêm thì địch thu súng lại hết của binh sĩ cất vào kho, chỉ có bọn gác mới có súng. Cách liên lạc là sử dụng “hộp thư” mật bằng lon sữa bò chôn dưới gốc cây cầy. Chi bộ chúng tôi sinh hoạt đảng bằng cách gặp mặt nhau rồi trao đổi nhanh nội dung, sau đó giải tán vì anh Nguyễn Kúc lúc đó là thư ký trung đoàn, Lê Uy là lính mật mã còn tôi là lính trực tổng đài nên các tin tức quan trọng chúng tôi đều nắm được và chuyền ra bên ngoài. Thêm nữa, chúng tôi còn giác ngộ thêm 235 binh lính ngụy trở thành cảm tình với cách mạng. Nhờ vậy, khi diễn ra trận đánh Căn cứ Tua Hai, số lính này chỉ ngồi yên, không chống trả.

Ngày ấy, chi bộ chúng tôi đã báo cáo đồng chí Phạm Việt Ngữ xin binh biến bằng cách “đánh từ trong ra, ngoài đánh vào”, nhưng Bí thư Tỉnh ủy Võ Văn Truyện lúc ấy chưa duyệt vì thời cơ chưa chín muồi và chưa thỉnh thị được với Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ. Điều này sau đó, chi bộ nghe đồng chí Phạm Việt Ngữ nhắc lại: “Chi bộ có đề nghị phối hợp lực lượng vũ trang bên ngoài tiêu diệt Căn cứ Tua Hai vì lúc đó ta còn có 30 đoàn viên và 235 binh lính cảm tình cách mạng trong lòng địch. Nhưng ngày 20-1-1959, Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ đạo chi bộ tiếp tục mai phục chờ thời cơ. Mà thật vậy, khi đến đúng cơ hội, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chỉ đạo cơ sở trong lòng địch vận động binh sĩ ngụy trong Trung đoàn 32 về quê ăn Tết để làm suy yếu chúng nên một phần lớn cảm tình cách mạng bỏ về nhà, một phần ở lại đã không chống trả khi ta đánh Căn cứ Tua Hai ngày 26-1-1960”.

Sau này xem tài liệu, tôi mới biết Căn cứ Tua Hai được quân ngụy Sài Gòn chọn làm vị trí đóng quân của Trung đoàn 32 nhằm kiểm soát, kìm kẹp phong trào cách mạng ở Tây Ninh. Căn cứ Tua Hai được xây dựng trên một khu đất bằng, cấu trúc hình vuông mỗi cạnh dài khoảng 800 m, chung quanh có tường thành bao bọc; được địch canh phòng với hàng chục vọng gác và ụ chiến đấu, quân số thường xuyên của Trung đoàn 32 lên tới 1.694 tên được trang bị vũ khí hiện đại.

Thực hiện nhiệm vụ của Xứ ủy Nam Bộ cần tập trung lực lượng đánh một trận lớn để mở màn phong trào vũ trang đồng khởi ở miền Đông Nam Bộ. Phương án tác chiến là dựa vào thông tin cơ sở trong lòng địch rồi sử dụng lực lượng đặc công, bí mật đột nhập dùng trái nổ diệt sở chỉ huy đồng thời các đơn vị bộ binh đồng loạt xung phong trên các hướng tiêu diệt các mục tiêu còn lại. Trận đánh Tua Hai có tổng quân số 225 cán bộ chiến sĩ và 300 dân công phục vụ mục đích chủ yếu: “chiếm đoạt vũ khí”.

Và quả thật, trận tiến công Căn cứ Tua Hai là trận đánh giành thắng lợi vang dội nhất ở chiến trường miền Đông Nam Bộ từ sau năm 1954 đến năm 1960, có tác động mạnh mẽ, mở màn cao trào Đồng khởi ở Đông Nam Bộ. Đồng thời, từ thắng lợi của trận đánh, ta đã thu được một lượng lớn vũ khí kịp thời trang bị cho các đơn vị địa phương tiến công địch trong quá trình đồng khởi vũ trang.

Trong thời gian bị địch bắt, tra tấn rồi đày ra Côn Đảo, tôi học lỏm từ một lão thành cách mạng khác cách tự trị bệnh cho mình và bạn tù. Cho nên, dù hiện chỉ hưởng lương hưu và trợ cấp thương binh khoảng bảy triệu đồng/tháng, tôi vẫn muốn làm việc thiện giúp dân nghèo như lời thề khi đi theo Đảng. Vậy nên, ngoài khoản chi tiêu dè sẻn sau khi trừ chi phí thuê nhà ba triệu đồng/tháng, cứ mỗi năm một lần, tôi lại mang tiền gom được đóng góp cho các công việc thiện nguyện. Để có thể nhớ hết các bài thuốc nam, trong tù tôi từng dùng viết ghi chi chít chữ vào mặt sau của áo tù. Sau đó, ra tù thì chép lại lên giấy, rồi tự học nâng cao tay nghề qua việc đọc thêm sách đông nam dược…

Nguồn Nhandan

Tin cùng chuyên mục