Hotline: 02763.822322
|
Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh Quân đội
Tư tưởng Hồ Chí Minh Quân đội
Vàm Cỏ Đông ký sự:
Kỳ IV: Những ngôi chùa cổ kính ven sông
Thứ hai: 10:30 ngày 27/05/2024

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTNO) - Lịch sử khai khẩn Tây Ninh ghi nhận Trảng Bàng là vùng đất đầu tiên các di dân đến định cư. Bên cạnh những thửa ruộng mới khai phá, nhiều ngôi đình, chùa được dựng lên để làm chỗ dựa tinh thần cho cư dân trên vùng đất mới.

Tổ đình chùa Phước Lưu xưa

Chùa Tịnh Lý

Chỉ tính riêng trên vùng đất Trảng Bàng, gần 200 năm qua, có những chùa làng như Tịnh Lý, Phước Lưu mang đậm nét văn hoá đặc trưng của vùng đất Trảng.  

Khu phố An Khương, phường An Tịnh, thị xã Trảng Bàng là một trong những thôn Việt đầu tiên trên đất Tây Ninh. Nơi đây hiện có ngôi chùa Tịnh Lý cổ kính. Tiền thân của chùa này là một ngôi miễu nhỏ ở gốc cây giữa trảng Bàu Đắng, do những đứa trẻ chăn trâu trong làng dựng bằng tre và cây. Trong miễu thờ các tượng Phật bằng đất sét, do trẻ chăn trâu nặn từ đất của Bàu Đắng. Những năm sau, nhiều người dân mang lễ vật đến cúng bái, thấy hiển linh nên người dân gọi là chùa Bàu Đắng.

Nét độc đáo của chùa là được xây dựng khang trang bởi quan tri huyện và các hương chức của làng. Theo tư liệu ghi chép của làng An Tịnh, năm 1902, Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu của quận Trảng Bàng (người gốc An Tịnh), nhân một chuyến đi xem đắp đường, ông thấy chùa Bàu Đắng nhỏ, thấp nên mời người trong làng phụ cất lại ngôi chùa với quy mô lớn hơn và đặt tên là chùa Tịnh Lý. Chữ Tịnh có ý là chùa ở làng An Tịnh, còn chữ Lý là lý hào, lý trưởng đại diện làng đứng ra xây chùa.

Theo thời gian, chùa Tịnh Lý trải qua nhiều lần trùng tu. Hiện nay, chùa được xây dựng lại bằng tường gạch, mái ngói theo kiểu tứ trụ truyền thống của đình chùa Nam bộ. Nhìn bên ngoài, chùa trông giống như ngôi nhà truyền thống của một chức sắc Nam bộ xưa. Mái chùa lợp ngói, sân chùa có một cội lộc vừng, đôi chậu bông trang, trâm ổi và một hàng lu nước có gáo múc bằng miểng dừa. Trước sân chùa là tượng Bồ tát Quan Thế Âm, hồ nước, hòn non bộ, các ban thờ Phật Di Lặc, Ba Đầu Ma Thắng Như Lai, miếu thờ Ngọc Hoàng, Linh Sơn Thánh Mẫu, Địa Mẫu, Ông Địa…

Chùa Tịnh Lý- trông như ngôi nhà truyền thống Nam bộ

Hiện nay, chùa Tịnh Lý còn lưu giữ một số hiện vật quý mang giá trị lịch sử, nghệ thuật như ba tượng Phật bằng đất sét được quan Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu nhờ nắn lại, gồm tượng Phật Thích Ca thiền định, Phật Thích Ca sơ sinh và tượng Ba Đầu Ma Thắng Như Lai.

Ngôi chùa làng mộc mạc chân quê này đã gắn bó với nhiều thế hệ người dân làng An Tịnh từ xưa đến nay. Hằng ngày, người dân đều tập hợp cùng với các sư thầy của chùa để thực hiện nghi thức tụng niệm. Phật tử Nguyễn Thị Thẹo, ngụ địa phương cho biết: “Hằng ngày, từ 7 giờ tối, chúng tôi đến đây tụng kinh niệm phật, đến 8 giờ tối thì nghỉ. Ngôi chùa này thiêng liêng lắm, không thể nào nói hết được”. Phật tử Nguyễn Thị Sự chia sẻ: “Tôi thích ngôi chùa cổ xưa này. Mỗi buổi tối đến đây tụng kinh niệm phật, thấy trong lòng mình an yên”.

Chùa Phước Lưu

Ngoài chùa Tịnh Lý, còn có một ngôi chùa khác cũng đã tồn tại gần 200 năm tuổi, đó là chùa Phước Lưu. Tiền thân của ngôi chùa này cũng là cái am nhỏ, mái lợp tranh, được dựng lên ven cái trảng mọc đầy cây bàng để thờ Phật. Am đầu tiên được lập vào năm Canh Tý 1840. Sau đó, bà Nguyễn Thị Trinh, quê ở Long An, theo chân các di dân đến xứ Trảng đã cải tạo lại am thờ Phật và bắt mạch, hốt thuốc chữa bệnh cho người dân. Người đàn bà này còn có khả năng coi đồng, xem mặt đoán bệnh, tiên đoán sự việc. Vì thế, dân gian gọi bà Trinh là Bà Đồng và ngôi thảo am cũng được gọi là “am Bà Đồng”.

Về sau có một ni cô tên Trần Thị Nên, pháp danh Chơn Tăng đến thảo am tu tập và cùng bà Đồng chữa bệnh. Bà Nên lớn tuổi, người dân quen gọi là bà Cốc. Bà Đồng và bà Cốc ở am hành thiện cứu người. Tiếng lành đồn xa, ngày càng có nhiều người đến đây cúng viếng và chữa bệnh. Về sau, am tranh được mở rộng thành một ngôi chùa và được gọi là chùa Bà Đồng.

Vỏ đạn trái sáng được Hoà thượng Thích Thiện Nhân sử dụng mỗi khi tụng niệm

Trước khi tu tập, bà Cốc có ba người con trai, đều quy y xuất gia. Người con thứ nhất của bà lấy pháp danh là Trừng Lực. Sau khi bà Cốc mất, sư Trừng Lực thay mẹ trụ trì. Năm 1900, sư Trừng Lực huy động sự đóng góp của người Việt và người Hoa trong vùng để cải tạo lại chùa Phước Lưu. Sau lần trùng tu ấy, nơi đây trở thành ngôi chùa lớn nhất ở Trảng Bàng cũng như của cả vùng phía Nam Tây Ninh. Hiện tại, chùa Phước Lưu còn lưu giữ nhiều tranh, tượng quý, như bộ tranh “Ngũ Hiền thượng kỳ thú” do hoạ sĩ Năm Kiếng, người làng Gia Bình (Trảng Bàng xưa) vẽ, gây ấn tượng mạnh với khách thập phương. Chùa Phước Lưu còn giữ gìn nhiều mộc bản với các nội dung là pháp phái, sớ, điệp, chú, bát quái v.v... được khắc vào khoảng năm 1898. Chùa còn lưu giữ hàng trăm quyển kinh, luận, sách thuốc bằng chữ Hán Nôm, do các vị chư tổ biên soạn.

Chùa Phước Lưu còn có một vật dụng khá đặc biệt, được Hoà thượng Thích Thiện Nhân, Trụ trì chùa Phước Lưu thường xuyên sử dụng mỗi khi tụng niệm, đó là một vỏ đạn trái sáng. Ông dùng vỏ đạn này thay cho chiếc khánh trong các nghi lễ, khoá tụng trong chùa. Hoà thượng dùng chiếc bu-loong bằng kim loại gõ vào chiếc khánh để tạo ra tiếng ngân vang. Trụ trì Thích Thiện Nhân giải thích: “Trước đây, loại vũ khí này tạo ra tội ác, nay chùa cải tạo để hướng dẫn cho bá tánh hướng thiện, nhằm nói lên tinh thần đạo pháp hướng mọi người làm lành lánh dữ, nương về nơi tam bảo để hạnh phúc an vui”.

Chùa Cẩm Phong

Dọc theo bờ sông Vàm Cỏ Đông còn có ngôi chùa Cẩm Phong (chùa Quan Huế), ở ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu. Quan Huế là một vị quan triều đình Huế khuyết danh được cử đến vùng này để vãn hồi an ninh, mưu cầu phúc lợi cho dân chúng. Khi việc yên dân đã xong, vị quan ấy đến thôn Cẩm Giang đốn cây rừng, dọn một khoảnh đất nhỏ sát bờ sông Vàm cất một cái am mái lá nhỏ để tu hành. Những năm sau đó, am nhỏ được nâng cấp xây cất với quy mô lớn hơn, đặt tên chùa là Cẩm Phong.

Chùa Cẩm Phong ngày nay

Nói về nguồn gốc chùa Cẩm Phong, ông Nguyễn Quốc Việt- nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh cho biết thêm: “Hơn 100 năm trước, khi Pháp xâm chiếm nước ta, vua Tự Đức ký hoà ước nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhiều nghĩa sĩ bất bình trước hoà ước này nên không hợp tác với quân Pháp, trong đó có vị quan triều đình Huế khuyết danh.

Ông tìm đến vùng đất vắng vẻ bên sông Vàm Cỏ Đông lập chùa tu hành. Dân chúng thấy việc tu hành hợp với lòng dân, nên thường xuyên đến chùa cúng phật. Người dân nghe giọng nói của sư thầy là giọng Huế, biết ông là quan triều đình nên gọi tên là chùa Quan Huế”.

Sau ngày miền Nam giải phóng, ngôi chùa này được xây cất lại với quy mô lớn. Hơn 30 năm trước, thầy Thích Định Tánh- Trụ trì chùa Cẩm Phong nhận nuôi dưỡng những cụ già neo đơn, trẻ em mồ côi, bệnh tật bị bỏ rơi. Số lượng người có hoàn cảnh khó khăn ngày càng đông, năm 1996, thầy Thích Định Tánh xây dựng cơ sở Mái ấm Mây Ngàn, cũng trên địa bàn ấp Cẩm Thắng, xã Cẩm Giang, để làm nơi nuôi dưỡng những mảnh đời bất hạnh.

Hiện nay, Mái ấm Mây Ngàn nuôi dưỡng khoảng 200 cụ già neo đơn, trẻ em mồ côi, bệnh tật. Ngôi chùa Quan Huế trở thành nơi tu tập của nhiều phật tử trong vùng và là điểm đến yêu thích của du khách mỗi khi có dịp đến tham quan, du lịch Tây Ninh.

Thầy Thích Định Tánh bên những trẻ em mồ côi, bệnh tật bị bỏ rơi được chùa Cẩm Phong nuôi dưỡng

Dọc theo hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông còn có một số ngôi chùa cổ kính khác, như Cao Sơn (xã Phước Trạch, huyện Gò Dầu), chùa Thiền Lâm (chùa Gò Kén, xã Long Thành Trung, thị xã Hoà Thành)… Những cơ sở thờ tự gần 200 năm tuổi này đều lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hoá và nghệ thuật tiêu biểu của Tây Ninh. Có thể nói, gần 200 năm qua, những ngôi cổ tự ven sông Vàm đã đồng hành với lưu dân thời mở đất cùng các hậu duệ của họ trong quá trình hình thành và phát triển Tây Ninh ngày nay.

Đại Dương

Tin cùng chuyên mục