Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Cần quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII vừa kết thúc. Trong bài phát biểu bế mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết:“Hội nghị nhất trí ban hành nghị quyết về cải cách chính sách tiền lương nhằm sớm xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp |
|
phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Chủ trương cải cách tiền lương là một trong những vấn đề hệ trọng, được dư luận đặc biệt quan tâm.Xung quanh chủ trương cải cách chính sách tiền lương, phóng viên Báo Tây Ninh đã có cuộc phỏng vấn ông Trịnh Ngọc Phương, đại biểu Quốc hội, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Tân Biên về vấn đề này. |
Đại biểu Quốc hội Trịnh Ngọc Phương.
PV: Thưa ông, chính sách cải cách tiền lương mà hội nghị Trung ương 7 vừa thông qua có tác động như thế nào đến sự phát triển kinh tế, xã hội?
Ông Trịnh Ngọc Phương: Chính sách tiền lương ở nước ta tính đến nay đã trải qua 4 lần cải cách. Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách này vẫn đang tồn tại nhiều bất cập, làm nảy sinh nhiều vấn đề trong xã hội.
Theo tôi, chính sách tiền lương mà hội nghị Trung ương 7 vừa thông qua có vai trò tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích người lao động nói chung phấn đấu vì chức phận chứ không phải vì chức vụ.
Qua đó, khuyến khích người lao động đầu tư cho chuyên môn. Bởi vì, chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng, quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến cân đối vĩ mô, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng chống tham nhũng.
Cải cách tiền lương là động lực nhưng cũng là áp lực cho điều chỉnh tiền lương. Vì thế, theo tôi, cải cách tiền lương phải làm nhanh và dứt khoát.
PV: Theo ông, điều kiện “cần và đủ” để cải cách tiền lương thành công là gì?
Ông Trịnh Ngọc Phương: Với mục tiêu đặt ra như đã nói ở trên, “điều kiện cần” là quyết tâm chính trị phải thật cao. Hơn nữa, không chỉ đặt vào thực hiện cải cách tiền lương mà quyết tâm chính trị cần đặt vào các nghị quyết Trung ương 6 đã ban hành và nghị quyết liên quan đến tinh giản bộ máy, xác định vị trí việc làm.
Còn “điều kiện đủ”, là phải chuẩn bị được nguồn lực. Vấn đề mấu chốt nhất hiện nay là tái cấu trúc nền kinh tế mà Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI đã đặt ra. Chúng ta cần đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đưa nền kinh tế thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng lên mức độ “khá”. Muốn có nguồn lực để cải cách tiền lương phải đẩy mạnh tự chủ và xã hội hoá. Sự hỗ trợ và chia sẻ của xã hội đối với khu vực dịch vụ công sẽ giảm bớt cho chúng ta gánh nặng phải chi ngân sách cải cách tiền lương.
PV: Theo tinh thần của chính sách cải cách tiền lương, trong tương lai gần, dự kiến năm 2021, sẽ có hai bảng lương: một dành cho chức danh lãnh đạo, một dành cho viên chức, công chức. Có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này, ý kiến của ông thế nào?
Ông Trịnh Ngọc Phương: Ðề án cải cách chính sách tiền lương nhằm giải quyết các bất hợp lý hiện nay đối với chính sách tiền lương là cào bằng, không kích thích được lao động sáng tạo, không kiểm soát được thu nhập ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Ðề án đã đưa ra 3 phương án xây dựng quỹ lương gắn với 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế: 7%, 6% và thấp nhất là 5%. Như vậy, việc cải cách chính sách tiền lương gắn liền với kết quả phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở tăng năng suất lao động, theo đó thực hiện trả lương phải theo cấp bậc, vị trí việc làm. Ðề án đề cao trách nhiệm trả lương của người đứng đầu, người sử dụng lao động gắn với năng lực, khả năng của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, trong đề án sẽ có sự sắp xếp lại giữa các ngành nghề và bảo đảm tính ưu tiên, khuyến khích các ngành nghề có chính sách ưu đãi của Nhà nước. Những bất cập như quá nhiều phụ cấp, quy định lương bằng hệ số… sẽ được khắc phục khi ban hành chế độ tiền lương mới. Khi ấy, tiền lương sẽ là chính, phụ cấp chỉ chiếm phần nhỏ.
Cơ cấu tiền lương gồm mức lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương), các khoản phụ cấp (chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương). Ngoài ra, còn có cơ chế tiền thưởng theo vị trí việc làm, hiệu quả công việc (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp) sẽ tạo ra quyền chủ động của thủ trưởng các cơ quan trong chi trả tiền lương.
Ðiểm nổi bật của đề án là không quy định lương theo hệ số, ngạch bậc, mức tiền tuyệt đối sẽ thay cho cách tính lương bằng hệ số nhân với lương cơ sở và xây dựng hệ thống bảng lương mới trên cơ sở quy định bằng mức tiền tuyệt đối.
Thay thế hệ thống bảng lương hiện hành bằng hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; chuyển xếp lương cũ sang lương mới bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng.
Theo đó, có một bảng lương chức vụ, áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã. Một bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo.
Bảng lương này cũng được thiết kế bảo đảm tiền lương tương quan với bảng lương của người giữ chức vụ lãnh đạo, thậm chí có một phần khuyến khích những người làm chuyên môn nghiệp vụ có thể phát triển nhưng không nhất thiết phải đi theo con đường lãnh đạo vẫn có thể tăng lương.
Ðiểm khác đáng chú ý trong Ðề án là đề xuất tăng mức lương đối với cán bộ, công chức do Nhà nước quy định, giảm các khoản thu mang tính không chính thống, không thường xuyên để cơ quan, đơn vị tập trung vào làm nhiệm vụ.
Ðề án cho phép các tỉnh, thành ở các vùng động lực nếu tự bảo đảm cân đối ngân sách, tự bảo đảm nguồn cải cách tiền lương có thể chi lương cao hơn để khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao hiệu quả làm việc như đã thực hiện ở TP. Hồ Chí Minh, gỡ nút thắt về cơ chế cho các đơn vị tiết kiệm được chi thường xuyên, muốn quay lại để tăng lương cho cán bộ công chức mà không thực hiện được như thời gian qua.
PV: Hội nghị Trung ương 7 chỉ rõ, cải cách chính sách tiền lương phải gắn với cải cách hành chính, tinh giản biên chế. Nhưng các số liệu được công bố cho thấy, chủ trương tinh giản biên chế không có hiệu quả, thậm chí còn ngược lại, càng tinh giản, số người hưởng lương từ ngân sách càng tăng. Theo ông, giải quyết vấn đề này như thế nào?
Ông Trịnh Ngọc Phương: Mục đích của mọi cuộc tinh giản biên chế là tạo ra bộ máy công quyền hoạt động hiệu quả, trên cơ sở cơ cấu tổ chức tinh gọn với số lượng nhân sự phù hợp, được vận hành một cách khoa học để thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ đã được xác định.
Như vậy, mục đích của tinh giản biên chế không chỉ đơn thuần là giảm cơ học số lượng nhân sự (thay đổi về lượng), mà hơn thế, đây là cách thức để các cơ quan Nhà nước tinh lọc lại nhân sự (thay đổi về chất) nhằm làm cho hoạt động của cơ quan Nhà nước có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.
Ở Việt Nam, kể từ năm 2000 cho đến cuối năm 2012, Chính phủ đã ban hành ít nhất 4 nghị định, nghị quyết về tinh giản biên chế. Gần đây, Bộ Chính trị, Trung ương Ðảng đã có những quyết sách lớn về vấn đề này.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, kết quả tinh giản biên chế đang gặp nhiều khó khăn, số lượng biên chế trong các cơ quan hành chính Nhà nước không giảm mà còn tăng.
Vì thế, cần phải tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế với những cách thức khác, cùng với các giải pháp khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện tinh giản biên chế thời gian qua.
Tôi nghĩ rằng, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, giải pháp mang tính đột phá là triển khai có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6 (khoá XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập gắn liền với lộ trình cải cách tiền lương; quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương. Ðặc biệt, nếu thực hiện được mục tiêu mỗi năm giảm 10% biên chế, chắc chắn vấn đề cải cách chính sách tiền lương sẽ thuận lợi.
PV: Ðể chính sách cải cách tiền lương thành công phải có nguồn lực. Mặt khác, cần kiềm chế cho được lạm phát, nếu không làm được như vậy, tăng lương cũng chỉ có ý nghĩa về lý thuyết. Ý kiến của ông ra sao về vấn đề này? Kỳ họp Quốc hội tới đây có bàn về vấn đề cải cách tiền lương không?
Ông Trịnh Ngọc Phương: Trong bối cảnh hiện nay, cải cách chính sách tiền lương là vấn đề ngày càng cấp thiết. Tiến trình cải cách chính sách tiền lương có được sự thuận lợi là nhận thức về vai trò của Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng như những bất cập trong lĩnh vực này ngày càng rõ. Chủ trương dứt khoát và quyết tâm cao về cải cách thể chế thể hiện rất rõ qua nhiều nghị quyết được ban hành từ Ðại hội XII đến nay.
Cải cách tiền lương nhận được sự ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp cũng như những người đóng thuế. Tuy nhiên, khi điều chỉnh lương khu vực công, cần cân nhắc tính phức tạp của nhiệm vụ và mức độ trách nhiệm, mức giá và chi phí sinh hoạt của người dân nói chung để tiền lương có thể bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu.
Ðồng thời, cân nhắc mức độ công bằng với tiền lương khu vực tư cũng như cân bằng giữa công chức, viên chức ở các hạng ngạch khác nhau. Mặt khác, đi đôi với đó cần phải lưu ý, khi một người vào khu vực công, việc thăng chức lên cấp bậc và vị trị cao hơn, với lương cao hơn, cần được quyết định bằng những đóng góp vào công việc, không phải dựa trên bằng cấp cá nhân.
Do đó, vấn đề đặt ra là cần chuyển từ hệ thống hệ số lương sang hệ thống tiền lương cơ bản theo cấp, theo số tuyệt đối; phụ cấp hợp lý, không quá 50% tổng số của gói tiền lương…
Theo quan điểm của tôi, mức lương công chức phải bảo đảm mức sống, có mối quan hệ tương xứng với khu vực doanh nghiệp, thị trường, không thấp hơn. Còn vấn đề kỳ họp sắp tới Quốc hội có bàn về chính sách cải cách tiền lương hay không, theo dự kiến chương trình kỳ họp đến thời điểm hiện tại tôi chưa thấy. Tuy nhiên, đây là vấn đề nóng, là mối quan tâm của tất cả đại biểu Quốc hội.
PV: Xin cảm ơn ông về những trao đổi này!
VIỆT ÐÔNG