Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh 20 tháng 11
Tư tưởng Hồ Chí Minh 20 tháng 11
Phù phổi cấp: Nguyên nhân và triệu chứng
Chủ nhật: 08:50 ngày 29/07/2018

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
Phù phổi cấp là tình trạng ngạt thở do nhiều nguyên nhân khác nhau như nước ra ngoài mao mạch phổi quá nhiều, bệnh chỉ có thể cứu được nếu can thiệp sớm và hiệu quả.

Nguyên nhân gây phù phổi cấp

Các mao mạch ở phổi tăng tính thấm do những nguyên nhân sau đây:

Nguyên nhân từ bệnh tim

Tất cả các bệnh tim gây ra quá tải thể tích hoặc quá tải áp suất ở tâm thất trái, hoặc gây ra giảm lực co bóp của cơ tim đều có khả năng dẫn tới phù phổi cấp.

Những nguyên nhân từ bệnh tim hay gặp nhất là: Suy tim trái, bệnh van tim (nhất là hẹp van hai lá), những bệnh tim do thiếu cấp máu (thiếu máu cơ tim), nhịp tim nhanh kịch phát kéo dài. Ở những đối tượng không có tiền sử bệnh tim, thì trong số những yếu tố khởi phát bệnh có thể kể tới: nhồi máu cơ tim cấp tính, tăng huyết áp động mạch nặng, loạn nhịp tim nhanh, hoặc loạn nhịp tim chậm, sốt, tăng thể tích máu (truyền máu, có thai,...), nghẽn mạch phổi, cường giáp, ngừng điều trị suy tim đột ngột.

Nguyên nhân không do tim

Kích thích đường hô hấp do thở hít phải những khí độc và bụi.

Hít phải dịch chứa trong dạ dày khi nôn.

Truyền dịch vào hệ thống tĩnh mạch quá mức.

Di chứng sau khi cứu khỏi chết đuối.

Hệ thống thần kinh trung ương bị tổn thương, chấn thương sọ não.

Lên độ cao nhanh quá.

Chất ma túy: quá liều heroin.

Đường dẫn bạch huyết tắc nghẽn do viêm hoặc do bị chèn ép bởi khối u lớn và phát triển nhanh.

Phù phổi sau khi chọc rút quá nhanh lượng lớn tràn dịch màng phổi hoặc cổ chướng (báng nước).

Phù phổi sau phẫu thuật tim có chạy tuần hoàn ngoài cơ thể.

Tình trạng sốc giảm thể tích máu hoặc sốc nhiễm độc có thể có biến chứng là một thể phù phổi đặc biệt, chủ yếu là phù mô kẽ.

Đông máu nội mạch rải rác.

Triệu chứng của phù phổi cấp

Các dấu hiệu chức năng

Trong trường hợp suy tim trái, phù phổi xảy ra vào những giờ đầu của ban đêm hoặc sau lần gắng sức bất thường về thể lực. Phù phổi thể hiện bởi khó thở dữ dội, nhịp thở nhanh và những cơn ho gây nghẹt thở, dẫn tới khạc ra nhiều chất dịch, nổi bọt có màu hồng. Bệnh nhân bắt buộc phải ngồi dậy (khó thở khi nằm), toát mồ hôi và thường tím tái. Các đầu chi ẩm ướt và lạnh.

Các dấu hiệu thực thể

Khi nghe ngực, thường thấy có các ran ở xa xăm, ran bọt nước, ran ngáy và ran rít. Các ran này lan rộng dần, tiến lên dần từ đáy phổi tới đỉnh phổi ở cả hai bên. Đôi khi cũng nghe thấy tiếng rít ở thì thở ra, giống như tiếng rít của cơn hen phế quản. Mạch nhanh, đôi khi không đều (dấu hiệu của rung nhĩ). Huyết áp động mạch thay đổi và phải được giải thích dựa vào các giá trị đo được trước cơn phù phổi cấp. Vì cơn phù phổi này cũng có thể do việc tăng huyết áp kịch phát gây ra. Nghe tim thường hay thấy nhịp ngựa phi.

X-quang lồng ngực

Bóng mờ cả hai bên phổi, giới hạn không rõ rệt, hình ảnh không nét, như lót bông, thường khu trú ở vùng trước rốn phổi và đậm đặc hơn ở đáy phổi. Vùng chu vi của hai phổi sáng hơn, ở đây thường thấy những đường thẳng Kerley B.

Nguồn Vietnamnet (tổng hợp)
 

Tin cùng chuyên mục