Đọc báo in
Tải ứng dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh 20 tháng 11
Tư tưởng Hồ Chí Minh 20 tháng 11
KỶ NIỆM 120 NĂM SINH NHẬT ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG:
Sắt son một niềm tin vào tương lai đất nước
Chủ nhật: 23:15 ngày 04/09/2022

Theo dõi Báo Tây Ninh trên
google news
(BTN) - Ngày 6.9.2022, bốn ngày sau lễ Quốc khánh lần thứ 77 của nước ta, là kỷ niệm 120 năm sinh nhật đồng chí Lê Hồng Phong- vị Tổng Bí thư thứ 2 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là một trong những người học trò xuất sắc đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu trong tổ chức Cộng sản đoàn, sau là Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, tiền thân của Đảng ta.

Chân dung đồng chí Lê Hồng Phong.

Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6.9.1902 tại làng Đông Thôn, tổng Thông Lãng, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Thuở nhỏ, Lê Huy Doãn được theo học chữ Nho tại trường làng, sau ông chuyển sang học chữ quốc ngữ và thi đậu bằng sơ học yếu lược. Năm ông 16 tuổi, cha ông qua đời, gia cảnh quá khó khăn, người mẹ đau yếu không nuôi nổi 5 người con. Không có điều kiện tiếp tục học tập, Lê Huy Doãn đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh để mưu sinh và phụ giúp gia đình.

Những năm 1920-1923 tại thành phố Vinh, Lê Huy Doãn làm công trong một hiệu buôn của người Hoa, sau đó học việc rồi làm thợ tại Nhà máy diêm Bến Thuỷ. Tại đây, Lê Huy Doãn kết bạn với Phạm Thành Khôi, hai người trở thành bạn bè, đồng chí thân thiết trên con đường cách mạng. Cuối năm 1923, do tích cực vận động công nhân nhà máy diêm đình công đấu tranh đòi quyền lợi, phản đối chính sách hà khắc của giới chủ, Lê Huy Doãn và Phạm Thành Khôi bị đuổi việc.

Tháng 1.1924, qua sự tổ chức của Vương Thúc Oánh, con rể cụ Phan Bội Châu, 15 thanh niên- trong đó có Phạm Thành Khôi và Lê Huy Doãn vượt Trường Sơn qua Lào để sang vùng Đông Bắc Thái Lan hoạt động cách mạng. Lê Huy Doãn đổi tên là Lê Hồng Phong, Phạm Thành Khôi đổi thành Phạm Hồng Thái. Sau một thời gian ở tại Phichit, Thái Lan, hai người được lựa chọn sang Quảng Châu, Trung Quốc hoạt động.

Tại Quảng Châu, tháng 4.1924, Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái được kết nạp vào Tân Việt Thanh niên Đoàn, tức Tâm tâm xã - một tổ chức tập hợp những thanh niên Việt Nam yêu nước đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Hai tháng sau, vào ngày 19.6.1924, Phạm Hồng Thái được giao nhiệm vụ ám sát Merlin khi viên Toàn quyền Đông Dương này trên đường sang Nhật ghé qua Quảng Châu dự tiệc ở Sa Diện. Lê Hồng Phong cùng Lê Hồng Sơn- một thanh niên yêu nước cùng quê Nghệ An, được giao nhiệm vụ yểm trợ cho Phạm Hồng Thái. Việc không thành, Phạm Hồng Thái nhảy xuống dòng Châu Giang hy sinh.

Sau sự kiện này, nhằm tránh sự truy lùng của mật thám, tránh tình trạng bế tắc của Tâm tâm xã, và để có thêm kiến thức quân sự, nửa cuối năm 1924, Lê Hồng Phong vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố, khoá 2, kéo dài 16 tháng, do nhiều tướng lĩnh của Hồng quân Liên Xô và nhiều cán bộ ưu tú của Đảng Cộng sản Trung Quốc giảng dạy.

Ngày 11.11.1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô tới Quảng Châu trong phái bộ của Borodin. Khoảng tháng 12.1924, Lê Hồng Phong đã được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, dưới sự dẫn dắt, đào tạo của Người, Lê Hồng Phong trở thành cán bộ ưu tú của cách mạng, một chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường. Tháng 2.1925, Nguyễn Ái Quốc chọn Lê Hồng Phong và một số thanh niên ưu tú thành lập nhóm Cộng sản đoàn, sau đó trở thành nòng cốt để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 12.1925, sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố, Lê Hồng Phong vào học tại Trường Hàng không Quảng Châu, khóoá học kéo dài 9 tháng. Do nỗ lực học tập và rèn luyện tại trường, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Để đào tạo cán bộ quân sự cho sự nghiệp cách mạng sau này, Nguyễn Ái Quốc vận động chính phủ Tôn Dật Tiên cử Lê Hồng Phong sang Liên Xô đào tạo tại Trường Lý luận quân sự không quân ở Leningrad vào tháng 10.1926 và đến tháng 12.1927 chuyển sang học tại Trường đào tạo phi công quân sự số 2 của Liên Xô, khoá học kết thúc vào tháng 11 năm 1928.

Nhận thấy vùng Đông Dương đang cần những nhà cách mạng ưu tú, Quốc tế Cộng sản quyết định chuyển đồng chí Lê Hồng Phong sang đào tạo lý luận dài hạn, bài bản tại Trường đại học Phương Đông. Sau khi tốt nghiệp khoá học 3 năm (1928-1931), tháng 5.1931, Lê Hồng Phong tiếp tục làm nghiên cứu sinh tại Trường đại học Phương Đông.

Sau cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh cách mạng 1930-1931, phong trào cách mạng trong nước bị thực dân Pháp và bè lũ tay sai đàn áp dã man, nhiều tổ chức Đảng bị vỡ, nhiều đảng viên của Đảng bị bắt bớ, tù đày. Đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn, hầu hết Uỷ viên Trung ương Đảng, các Xứ uỷ viên Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ sa vào tay giặc, bị giam cầm, tra tấn, giết hại. Ở nước ngoài, ngày 6.6.1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hongkong, các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Sơn... cũng bị bắt, các cơ sở Đảng bị lục soát, khám xét quyết liệt.

Trước những tổn thất và khó khăn của cách mạng Đông Dương, tháng 11.1931, Quốc tế Cộng sản quyết định cử đồng chí Lê Hồng Phong về nước trên cương vị là cán bộ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương.

Tháng 3.1934, đồng chí Lê Hồng Phong đến Ma Cao (Trung Quốc) cùng với các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt bàn kế hoạch thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài (còn gọi là Ban Chỉ huy hải ngoại) của Đảng để thống nhất lãnh đạo các tổ chức Đảng, tiến tới tổ chức lại cơ quan Trung ương của Đảng. Tại hội nghị này, đồng chí Lê Hồng Phong được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy ở ngoài.

Tháng 6 năm 1934, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng cử các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn do đồng chí Lê Hồng Phong làm Trưởng đoàn đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Moscow. Trong khi đoàn đang ở Moscow, từ ngày 27 đến ngày 31.3.1935, tại Ma Cao (Trung Quốc) Đại hội I của Đảng được triệu tập.

Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội cũng đã chuẩn y việc Ban Chỉ huy ở ngoài cử đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và chỉ định thêm các đồng chí Nguyễn Ái Quốc (đang ở Moscow), Phạm Văn Xô, Nguyễn Chánh Nhì tham gia đoàn. Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu vào Đoàn Chủ tịch Đại hội, được Đại hội bầu là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực đóng góp cho thành công của Đại hội.

Ở trong nước, ngày 12.10.1936, tại Nam kỳ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức lại. Ngày 13 và 14.3.1937, hội nghị cán bộ ở ba kỳ cử Ban Chấp hành Trung ương gồm 11 uỷ viên. Đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Phùng Chí Kiên được Ban Chấp hành Trung ương phân công ở lại nước ngoài để giữ liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Ban Thường vụ Trung ương gồm 5 đồng chí do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư.

Cuối tháng 10.1937, đồng chí Lê Hồng Phong bàn giao công việc của Ban Chỉ huy ở ngoài cho đồng chí Phùng Chí Kiên phụ trách để về Sài Gòn - Chợ Lớn thảo luận với Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước cho phù hợp với tình hình mới.

Cuối tháng 3.1938, tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp quyết định đường lối đấu tranh mới và công tác tổ chức xây dựng Đảng. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 11 uỷ viên, Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu, do đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư. Từ ngày về Nam bộ hoạt động, mật thám Pháp theo dõi sát sao và lùng bắt bằng được đồng chí vì kẻ địch biết rõ Lê Hồng Phong là Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, và là một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta.

Ngày 22.6.1939, đồng chí bị sa vào tay giặc và bị Tòoà tiểu hình Sài Gòn kết án 6 tháng tù, 3 năm cấm lưu trú ở Nam kỳ. Ngày 29.8.1939, Toà thượng thẩm Sài Gòn xử y án. Hết hạn tù, ngày 23.12.1939, đồng chí Lê Hồng Phong được thả nhưng bị trục xuất khỏi Nam kỳ, áp giải về quê.

Đầu năm 1940, dù đang bị quản thúc tại quê nhà, nhưng để hạn chế hoạt động và ảnh hưởng của đồng chí, Toà án Pháp kết tội Lê Hồng Phong “hoạt động lật đổ” và dẫn độ về Sài Gòn. Ngày 22.10.1940, Toà thượng thẩm Sài Gòn kết án đồng chí 5 năm tù vì “hoạt động lật đổ”. Cuối năm 1940, sau một thời gian bị giam giữ ở Sài Gòn, địch đày Lê Hồng Phong ra nhà tù Côn Đảo.

Đồng chí đã cùng các chiến sĩ cộng sản trong tù tiếp tục đấu tranh, giữ vững khí tiết trước đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù. Lê Hồng Phong hy sinh ngày 6.9.1942 đúng vào ngày tròn 40 tuổi. Trước khi hy sinh, đồng chí nhắn nhủ với các bạn tù: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.

Trước đó, ngày 28.8.1941, người đồng chí, người bạn đời của ông là Nguyễn Thị Minh Khai đã bị Pháp xử tử tại ngã ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định sau cuộc Nam kỳ khởi nghĩa. Hai vợ chồng, hai người đồng chí, hai nhà lãnh đạo của Đảng: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai đã cùng các đồng chí khác viết nên trang sử vàng của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Đánh giá về lớp cán bộ tài năng, trung kiên bất khuất thời dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết.

Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.

N.T.H

(Tổng hợp)

Tin cùng chuyên mục