Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) -
Trời dai dẳng mưa, gió từng cơn cứ hắt hiu, tạt lạnh vào bốn phía. Tôi gom vội đống vỏ đậu xanh mới đập hồi chiều đốt thành một đống lửa giữa nhà, vừa hơ hai bàn tay teo héo vừa đâm chén muối ớt. Cái bụng càng lúc càng đói cồn đói cào, tôi hối thằng Muối.
- Muối ơi, khoai mì chín chưa mày, đói quá rồi!
- Làm gì dữ, tao đang gắp ra rổ đây!
Thằng Muối trả lời xong thì bưng rổ khoai mì luộc bốc khói nghi ngút lên đặt cạnh đống lửa. Tôi bốc ngay một củ chấm muối ớt và nhai ngấu nghiến như chết đói từ kiếp nào. Thằng Muối vừa ăn vừa nói với tôi cách đào dế nhũi đi cắm câu. Hai thằng tôi vốn là bạn hàng xóm, chơi với nhau từ hồi nhỏ.
Nhà nghèo thiếu trước hụt sau, nên chúng tôi ngoài giờ đi học thì đào trùn đi cắm câu, có mớ nào đỡ mớ nấy. Khấm khá thì đem chợ bán, ít thì để kho cho nhà ăn. Dạo này cá chê mồi trùn, thấy mấy người ở xa đến suối cắm câu toàn bằng mồi dế nhũi, nên thằng Muối mới bàn với tôi như thế.
Khoai mì nóng chấm muối ớt cay, bụng đang đói thì thật là ngon. Hơn tám giờ tối rồi mà trời cứ mưa nhẹ nhẹ đều đều mãi. Ngoài đồng tiếng ếch, tiếng nhái cứ kêu râm ran hoà với tiếng ễnh ương kéo nhừa nhựa vang cả một vùng trời tăm tối.
Thông thường giờ này thì có vài ngọn đèn soi quất qua quất lại ngoài kia rồi, nhưng sao đêm nay chỉ có một ánh duy nhất le lói, mập mờ có vẻ như rất cô độc. Tôi thấy làm lạ, thằng Muối nói chắc ai đó đi bắt nhái sớm đó thôi… Hai đứa chúng tôi vừa khêu vỏ đậu cho lửa cháy để bớt khói, vừa nhai khoai mì. Bỗng đâu một cơn gió mạnh tạt ngang làm tàn tro bay tung toé khắp cả nhà. Tôi và thằng Muối chưa kịp phủi bụi thì nghe đâu đó có tiếng ai kêu văng vẳng. Tôi vịn vai thằng Muối.
- Hình như có ai đó kêu gì đó Muối ơi!
Thằng Muối đứng phắt dậy nhìn ra phía cánh đồng.
- Ủa, cái ánh đèn mới đó mà đâu mất rồi?- Nó nghiêng tai theo hướng gió - Hình như có ai kêu cứu ngoài đồng đó mày ơi!
Tôi và thằng Muối tròng áo mưa vào và cầm ngọn đèn bước vội ra phía cánh đồng xa. Ðến gần hướng ánh đèn hồi nãy, từ xa đã thấy một đống gì lù lù đen thui. Tôi và Muối chạy đến thấy đúng là một tay đi soi đang nằm vật ra trên đám cỏ cạnh bên một vũng nước. Miệng hắn ta trào nước bọt ra ngoài, người co co giật giật vài cái rồi nằm im. Thằng Muối soi sát ngọn đèn vào mặt hắn ta, tôi hốt hoảng la lên.
- Lão Kính đây nè Muối ơi!
Thằng Muối nhanh tay đưa đèn cho tôi cầm, nó liền kéo lão Kính dậy và cõng cái thân mềm ẻo của lão lên lưng rồi hối tôi cùng đưa lão vô nhà ngay.
Lão Kính là một tay giang hồ bặm trợn, trong xóm chẳng ai ưa gì lão. Lão đã từng vào chuồng bò của người ta ban đêm, đâm chết một con và lấy duy nhất một cái đùi vác về, rồi đem ra chợ bán. Chó nhà tôi nuôi, qua vườn nhà lão là lão đập ăn thịt, gà nhà thằng Muối nuôi lão gài bẫy bắt ăn không còn một con.
Lão uống vô ba hột là kiếm chuyện khắp xóm, ai nói gì lão một câu là lão vác rựa qua nhà người ta doạ chém. Mấy trái ổi sẻ nhà lão thòng ra đường, ai ngang rảnh tay ngắt một trái, lão thấy được là chửi như xối nước vào mặt, thậm chí vác cây rượt đánh chứ không phải vừa.
Mới mấy hôm trước, biết tôi và thằng Muối đi cắm câu, lão canh me lúc tôi và Muối về nhà ăn cơm, lão thăm câu lấy sạch sẽ cá của chúng tôi... Nói thẳng ruột ngựa ra, tôi và thằng Muối ghét cay ghét đắng lão, muốn lão chết cho rảnh tám kiếp nhưng không hiểu sao khi thấy lão sắp chết thì lại…
Thằng Muối đặt lão Kính nằm trên bộ ván ngoài mái nhà. Tôi cởi áo mưa lão ra soi đèn hai bàn tay lão không thấy dấu vết gì, soi bàn chân trái của lão thì thấy có vết máu đang rịn ứa ra. Tôi lấy miếng vải lau vết máu thì thấy có ba dấu răng. Tôi nói với thằng Muối.
- Lão bị rắn cắn rồi Muối ơi, có lẽ là rắn độc nữa. Mày lấy chén giấm nhanh đi.
Tôi lấy cái mác chẻ liền làm hai hột nọc mà trước khi đi làm xa cha tôi cất trong hộc tủ. Rửa giấm cho ướt mặt hột nọc, tôi đặt ngay vào vết cắn, hột nọc hít chặt, tôi lấy miếng vải băng sơ lại, rồi nói với thằng Muối.
- Ðây chỉ là cách tạm thời thôi, giờ làm sao mà cứu lão đây Muối?
- À, tao nhớ ra rồi, đi tìm Tà Lục! Tao nghe người ta nói Tà Lục trị rắn cắn rất hay.
- Vậy mày có gặp Tà Lục bao giờ chưa?
- Chưa, nhưng tao biết Tà Lục trong sóc Khmer ở thượng nguồn… đi… đi… nhanh lên mày.
Tôi lấy cái cáng khiêng đất đặt xuống, cùng thằng Muối khiêng lão Kính đặt lên, đầu đội đèn bình, khoác áo mưa vào và cáng lão xuống suối. Trời vẫn mưa lâm râm, những lằn sét xanh đỏ rạch như nát cả bầu trời đêm. Tới bờ suối, tôi kéo xuồng vào sát bờ rồi đặt lão Kính vào trong sạp.
Tôi đội đèn chèo mũi, thằng Muối chống sào sau lái. Mùa này dòng Tha La nước lớn, giữa dòng nước chảy rất dữ dội, xuồng đi ngược nước chèo rất nặng, nên chúng tôi chỉ men theo bờ mà đi. Tôi hỏi thằng Muối.
- Mày biết đường vô sóc không vậy Muối?
- Qua khỏi chòi Tư Kỷ, đến khúc eo co sẽ thấy một xóm nhà xung quanh bao bọc bởi rừng tre gai rất lớn.
- Mày có vô đó bao giờ chưa Muối?
- Chưa bao giờ, tao nghe nói trong đó bùa ngải nhiều lắm nên không dám vô.
Qua hơn bốn cây số đường suối, chúng tôi cập xuồng vào một bãi cỏ xoáy trâu rất rộng, soi đèn lên xa xa thấy một rừng tre gai bạt ngàn, tăm tối như cõi u minh vậy. Tôi neo dây xuồng vào một tảng đá, xong chui vào trong mui xem lão Kính thế nào.
Trời ơi, lúc ở nhà người lão còn ấm đều, vậy mà giờ chân tay mình mẩy đều lạnh tanh, cứng đờ, chỉ có chỗ ngực trái là còn hơi âm ấm. Hiểu ý tôi, thằng Muối nói, nếu lão không vắn số thì trời phật cho mình tìm gặp được Tà Lục…
Khiêng lão lên bờ, thằng Muối cõng lão trên lưng, tôi soi đèn dò đường lên sóc. Cặp theo tường rào tre gai có một con đường mòn nhỏ dẫn vào trong. Bước chân vào trong sóc, tôi bắt đầu nghe lành lạnh sau gáy. Bầu trời vẫn mưa lâm râm và tối đen như mực.
Nghe có tiếng người lạ, không biết ở đâu mà quá trời quá đất chó lao ra sủa, làm tôi và thằng Muối phát điếng hồn với chúng. Vừa lúc ấy, một ông già người Khmer ở trần vấn xà-rông chống gậy đi đến trước mặt tôi nói một tràng tiếng gì đó, tôi chẳng hiểu. Thấy hai đứa chúng tôi lớ ngớ, ông ta mới nói một câu bằng tiếng Việt.
- Duồng à?
Cái này thì tôi biết, vì người Khmer hay kêu người Kinh bằng duồng.
- Dạ tụi con là… là...
- Có gì mà người đi người vác như vậy?- Ông già hỏi tôi.
- Dạ ông này bị rắn cắn sắp chết rồi, tụi con tìm xin Tà Lục cứu.
Ông già không nói không rằng gì nữa. Ngoắc tay một cái ý là kêu chúng tôi đi theo ông ta. Ðám chó càng sủa dữ dội. Ông già la lên một tiếng gì đó không biết, mà tự nhiên đám chó im re và quay đầu chạy đi đâu mất không còn một con. Ông ta dẫn chúng tôi đi qua vô số ngõ ngách, hết lùm bụi rồi đến ven những mái nhà thâm thấp. Cuối cùng đi đến một ngôi chùa.
Ngôi chùa Khmer với tôi không lạ nhưng đêm nay sao nhìn nó kỳ vĩ quá. Trong chùa nến thắp sáng rực. Trước sân là hai tượng Chằn tay cầm gậy chống, nhìn thấy rất dễ sợ. Mái chùa cao vút như vươn với trong màn đêm vô tận.
Những lằn lửa xanh trên cao như những luồng sinh lực của vũ trụ truyền vào bên trong, làm cho ngôi chùa như một cõi huyền bí đến lạ lùng. Trên những bậc thang lên chánh điện là hai hàng sư trẻ đứng chắp tay nghiêm trang như tượng.
Tà Lục là một vị sư già, tướng mạo cao lớn và rắn chắc như một Kim Cương hộ pháp vậy. Ông đứng ngay trước cửa chánh điện và nói là đã đợi chúng tôi từ lâu lắm rồi. Tôi nghe mà hết cả hồn, không biết sao mà Tà Lục thần thông đến vậy. Tôi vội quỳ sụp xuống lạy Tà Lục ba lạy và xin ông cứu lão Kính bị rắn cắn…
Lão Kính được đặt nằm ngay phía hành lang chánh điện. Tà Lục lấy một gói thuốc gì đó trong bọc giấy bỏ vào chén chung nước, tay vừa lắc miệng vừa đọc lâm râm bài kinh bằng tiếng Khmer. Xong, ông bóp hàm lão Kính đổ vào phân nửa, còn phân nửa chế lên vết rắn cắn.
Ðoạn Tà Lục lấy một tấm vải màu vàng sậm đắp ngang ngực lão Kính, rồi ông ta ngồi xếp bằng ngay phía trên đầu lão Kính, một tay để ngang ngực, một bắt ấn, hai mắt ông nhắm nghiền lại và đọc kinh. Mấy phút sau, thật là kỳ diệu, không biết từ đâu một con rắn đen to đùng từ ngoài trườn vào. Nó bò quanh lão Kính một vòng rồi há miệng ngậm ngay chỗ vết thương của lão.
Tôi nhìn qua thằng Muối thấy mặt mày nó xanh lét, hai hàm răng đó đánh cầm cập. Tà Lục vẫn đọc kinh đều đều. Con rắn oằn mình như đang cố hút mạnh cái gì đó ra từ người lão Kính. Tự nhiên tôi nghe một tiếng thở khì thật mạnh vang ra từ trong người lão Kính.
Thân mình lão vẫn cứng như bị điểm huyệt, chỉ có hai bàn tay nhăn nheo của lão là cựa quậy. Lão bắt đầu rên ư ử…. rồi một thứ âm thanh gì đó rất quái lạ bay ra từ miệng lão. Lão tru lên y chang tiếng chó bị đập đầu đau đớn, rồi tiếng gà bị cắt cổ, tiếng bò rống… những thứ âm thanh hỗn tạp ghê rợn không khác gì nó đang bay ra từ địa ngục đầy chết chóc.
Tôi hoảng quá toan đứng dậy định chạy ra ngoài nhưng Tà Lục ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Vừa lúc ấy, con rắn cũng bỏ lão Kính ra, nó bò đến sát bên chỗ Tà Lục ngồi. Tà Lục lấy tay huơ qua lại đầu nó, nói một câu gì đó bằng tiếng Khmer, tự nhiên nó bò một mạch ra khỏi chùa và đi mất.
Tà Lục đứng dậy đến vạch vết cắn xem qua xem lại, xong ông vạch mí mắt lão Kính ra xem và nói.
- Xong rồi! Ác nghiệp!
Tôi và thằng Muối quỳ lạy Tà Lục và trong lòng hết sức mang ơn y như ông ta vừa cứu người thân của mình vậy. Tà Lục nói với tôi: “Nó không chết đâu, đưa nó về đi”. Thằng Muối đến xốc lão Kính dậy, nó lại cõng lão trên lưng, tôi đi sau lưng nó bước ra khỏi chùa. Tôi quay lại xá Tà Lục một xá coi như chào tạm biệt ông. Tà Lục đứng trên hành lang nói về phía tôi một câu đầy vẻ huyền bí.
- Muốn trèo cây hái quả thiện thì phải biết róc bỏ gai ác!
Trời về khuya, bầu trời đã hết mưa hẳn. Giữa trời hiện ra một vầng trăng sáng tỏ. Xuồng chúng tôi bắt đầu xuôi theo dòng nước ra về. Sóc người Khmer và rừng tre gai rì rào mờ dần trong sương đêm. Lão Kính như khoẻ hẳn ra, lão không nằm bất động nữa, lão đã ngồi dậy được trong mui xuồng và nói lời nhỏ nhẹ rằng cảm ơn hai đứa chúng tôi. Thằng Muối chống lái cho xuồng trôi theo dòng nước đều đều.
Tôi nhìn gương mặt lão Kính sao lại rất hiền, không biết cái vẻ hung tợn, bặm trợn của lão tan đi đâu mất. Dòng Tha La nước đục lờ như muốn cuốn phăng đi ánh trăng vàng, nhưng ánh trăng vàng lại cứ thiền định mặc nhiên bất động giữa dòng nước chảy. Trong đầu tôi cứ hình dung bóng dáng từ bi của Tà Lục và văng vẳng câu nói của ông “Muốn trèo cây hái quả thiện thì phải biết róc bỏ gai ác”… Nước chảy. Trăng sáng. Và xuồng nhẹ tênh trôi…
Ð.T.S