Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTNO) -
(BTNO) - Ngôi mộ cổ chế tác trăm phần trăm từ đá xanh (granite), chắc chắn phải là ngôi mộ cụ tổ họ Lâm ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, được xây dựng khoảng năm 1910 trong khuôn viên nghĩa trang dòng họ. Theo lời kể của con cháu các cụ, thì ngôi mộ được xây dựng hoàn toàn bằng đá xanh mua tận Biên Hoà, giống như trường hợp xây chùa Thiền Lâm- Gò Kén sau đó. Có lẽ nhờ chất liệu đá này, mà mộ còn nguyên vẹn đến ngày nay, kể cả những hàng chữ khắc trên bia đá, thật sắc sảo và đẹp mắt.

|
Mộ đá Thanh Điền.
“Mẹ tôi mãi mơ đến cõi thiền
Huyền vi Phật pháp thuở truân chuyên
Xế chiều thư thái bên chân Phật
Bồ đề lần hạt trải nhân duyên”
Trên đây là bài thơ do đích thân anh Sáu Phước- một thợ đá ở Long Thành Trung tự sáng tác và khắc lên đá để đặt trên nấm mồ của mẹ anh. Xưởng của anh, ngoài rất nhiều các sản phẩm đẽo tạc từ đá, còn có rất nhiều ngôi mộ đá. Cũng tường quây, trụ đá búp sen, các tấm bia đá bình phong… nhưng giờ đây đã nâng cấp lên gấp nhiều lần những mộ đá xưa. Nào chạm khắc rồng, phụng, dây nho hoa lá…
Cấu kiện nào cũng được mài láng bóng lộ ra chất đá trơn lì, lấm tấm hạt mè hoặc vân vi như mây, sóng trên cái nền sâu thẳm của đá mài trơn.
Nhưng thú vị nhất là ở xưởng đá Kịp Râu thuộc xã Chà Là, huyện Dương Minh Châu có cả những tấm đá nguyên khối làm nấm mộ. Cũng trơn láng, nhưng kích thước và trọng lượng có thể làm ta kinh ngạc. Thì nguyên khối mà dài cỡ hai mét, rộng độ mét hai, lại dày dặn tạo hình khối sáu hay tám mặt. Chủ nhân xưởng đá Kịp Râu bảo: Có mà mấy tấn, phải dùng xe cẩu mỗi khi chuyển đi giao cho khách đặt hàng.
Vâng! Cứ theo những quan sát tại hai xưởng đá lớn và nổi tiếng của các anh Sáu Phước, Kịp Râu, thì dường như một tập quán xa xưa của ông bà là xây mộ đá cho các bậc tiền nhân đã trở lại. Chỉ khác một điều là xưa chỉ có những bậc tổ phụ của các dòng họ giàu có hoặc gia thế lắm mới có thể xây mộ đá.
Còn ngày nay, đời sống chung của người dân đã khá lên gấp nhiều lần… thì cũng kéo theo số người làm mộ đá cho người thân quá cố cũng nhiều thêm gấp bội phần. Và đó cũng là lý do để cho nghề đá ở Tây Ninh vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Dĩ nhiên không chỉ có mộ, mà còn các đồ thờ cúng ở nơi công cộng như lư hương, trụ đèn, linh vật… thậm chí xưởng anh Sáu Phước còn có hẳn những ngôi miếu thờ tạc ra từ nguyên khối đá.
Những ngôi mộ đá mới láng o thì vẫn phải chờ thời gian trôi qua để con người và cả thời gian thẩm định cả về độ bền lâu và tính nghệ thuật. Nhưng Tây Ninh từng có những ngôi mộ đá xưa, đã quá trăm năm mà vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” đến bây giờ.
Một trong những mộ đá xưa của một nhà gia thế vẫn còn ở ngay giữa lòng thành phố Tây Ninh, thuộc khu phố 2, phường 1. Đấy là khu mộ của cụ Đốc phủ sứ Nguyễn Tâm Kiên và vợ. May sao trong “chiến dịch” dời mồ mả tại các khu dân cư ở phường 1 đã không “động” đến khu mộ quý giá này.
Có hai lý do. Một l,à khu mộ đã có tuổi 120 năm, được xây năm 1895. Hai là, ngay trong khu mộ còn có một ngôi miếu thờ, có lẽ cũng tồn tại chừng ấy năm. Vậy cũng có thể xem đấy là một ngôi thờ tự. Về mặt vệ sinh môi trường đã có thể coi là vô hại.
Là một nhà gia thế, cụ ông từng được du học bên Pháp và về nước với hàm Đốc phủ sứ, từng làm tri huyện Quang Hoá (Trảng Bàng) trước năm 1910. Khu mộ đá này cũng chỉ một phần lớn được xây bằng đá. Đấy là các trụ có đỉnh hình búp sen, các bờ tường móng bao quanh, các tấm bia ở đầu và cuối mộ.
Bia có mái thì cả mái và bia được đẽo tạc từ nguyên khối đá. Phần còn lại được xây từ gạch, vữa. Đặc biệt, phần nấm hai ngôi mộ cụ ông và cụ bà đều được đắp bằng loại vật liệu chỉ có ở thời xưa, là vữa vôi mật hoặc vôi cát và ô dước. Dù 120 năm đã trôi qua nhưng các hình đắp nổi trên nấm cả hai ngôi mộ vẫn hầu như nguyên vẹn. Chỉ có bề mặt đã ngả màu bạc xám lẫn rêu phong.
Ngôi mộ cổ chế tác trăm phần trăm từ đá xanh (granite), chắc chắn phải là ngôi mộ cụ tổ họ Lâm ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, được xây dựng khoảng năm 1910 trong khuôn viên nghĩa trang dòng họ.
Theo lời kể của con cháu các cụ, thì ngôi mộ được xây dựng hoàn toàn bằng đá xanh mua tận Biên Hoà, giống như trường hợp xây chùa Thiền Lâm- Gò Kén sau đó. Có lẽ nhờ chất liệu đá này, mà mộ còn nguyên vẹn đến ngày nay, kể cả những hàng chữ khắc trên bia đá, thật sắc sảo và đẹp mắt.
Khu mộ cụ Tổ được đặt trang trọng ở gần cuối nghĩa trang, trên khu đất chữ nhật rộng, dài: (6,5 x 8,0) mét. Bao quanh là hàng rào đá, bổ trụ đá chia 3 gian. Trụ chính cổng vào cao 1,8 mét, lan can cao 1,3 mét… rồi thanh dầm ngang, lan can con tiện… tất cả được đục ra từ đá núi.
Dĩ nhiên là đá vẫn được để nguyên mặt nhám xù xì, chứ không mài trơn láng như các mộ tân thời. Vậy mà kỳ diệu thay, mặt đá vẫn sáng tươi, hầu như không rêu bám dù giữa mùa mưa ẩm ướt. Phía trước khu mộ án ngữ ngay chính cổng vào và cách ra gần 4 mét có một tấm bia đá xanh được chạm khắc tỉ mỉ các hình rồng mây và con nai ngơ ngác dưới bóng cây tùng.
Nhưng đặc biệt tinh xảo là trên bia đá ở bên trong, trước từng ngôi mộ. Ngôi bên phải (theo tay của người từ ngoài nhìn vào) là mộ cụ ông. Bên trái là mộ cụ bà.
Có thể nhận ra ngay nhờ vào 2 tấm bia tinh xảo ấy. Bên cụ ông thì rồng cuộn hai bên thành bia, từ dưới lên với thân hình uốn khúc, chân giương móng đạp vào mây, đầu hướng lên trên chầu vào một đoá hoa sen rất lớn.
Tấm bên kia lại khắc hình đôi chim phụng chầu vào một đoá hoa tròn thật lớn, giống hoa hướng dương. Dù là khắc trên mặt tấm đá không mài bóng, nhưng đường nét, khối hình chi tiết vẫn sống động lạ thường. Và đặc biệt là các hàng chữ Hán khắc trên mặt đá. Chữ đẹp viết lối thư pháp, nét thảo rất bay và sinh động.
Bia chạm rồng ghi, dịch ra phiên âm tiếng Việt: chính giữa là: Đại Nam hiển linh tánh Lâm, hưởng thọ ân
Dòng phải: Tốt ư, kỷ tỵ niên, bát ngoạt thập lục nhật
Dòng trái: Văn võ đậu giám quản, Văn, Vịnh, Viên tham đồng lập thạch
Bia phụng dòng chính giữa ghi:
Đại nam hiển tỷ tánh Nguyễn, hưởng thọ lục thập cửu tuế
Dòng bên phải: Kỷ mùi niên, tam ngoạt sơ thất chung nhi
Dòng trái: Nam Lâm Văn Quảng, Lâm Văn Có, Lâm Văn Đậu, Lâm Văn Vĩ, Minh, Vinh, Linh, Thám đồng lập thạch.
Từ đây, tạm thời suy đoán, các cụ mất vào triều Nguyễn, có tên nước là Đại Nam (từ Minh Mạng, 1820 trở đi). Các năm mất của cụ ông là Kỷ Tỵ, cụ bà là Kỷ Mùi -có thể là các năm 1869 và 1859.
Chính từ ngôi mộ đá này đây, và có thể còn những ngôi khác trên miền đất Tây Ninh hơn 300 năm cổ tích; có thể tìm ra những chứng cứ lịch sử liên quan đến sự nghiệp khẩn hoang Nam bộ của cha ông.
Và chắc chắn, vài ngôi mộ đá kể trên vẫn còn bền vững vài trăm năm nữa, nếu con người biết chăm lo gìn giữ.
TRẦN Vũ